Ung thư tế bào gan nguyên phát ( HCC – Hepatic Cell Cancer) là gì? Ung thư gan nguyên phát (HCC) là là một bệnh lý ác tính đứng hàng thứ 5 trong số các loại ung thư trên toàn cầu, gây tử vong cho hơn một triệu người mỗi năm và là một trong số ít ung thư mà căn nguyên được xác định. Ðây là một loại ung thư thường gặp nhất ở người trưởng thành.Tần suất ung thư gan thay đổi theo vùng địa lý tuỳ theo mức độ lưu hành dịch tễ của nhiễm virus viêm gan B, C. Châu Á và khu vực dưới sa mạc Sahara của Châu Phi là nơi lưu hành dịch virus viêm gan B cao, do đó có tần suất ung thư gan cao nhất. Ở Việt Nam ung thư gan thường gặp sau ung thư phổi ở nam giới, 70-80% liên quan đến nhiễm virus viêm gan B.
Những yếu tố nguy cơ dẫn đến ung thu tế bào gan nguyên phát? Giới tính: Ung thư gan nguyên phát thường gặp nhiều ở nam hơn nữ 3-4 lần và không phụ thuộc vào sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm virus viêm gan B,C của 2 giới. Nguyên nhân còn chưa rõ.
Tuổi: Ở khu vực nhiễm virus viêm gan B cao như Việt Nam, bệnh nhân nhiễm bệnh từ nhỏ và diễn tiến tự nhiên của bệnh viêm gan virus B,C dẫn đến biến chứng xơ gan, ung thư gan kéo dài vài chục năm, nên ung thư gan thường gặp ở độ tuổi sau 40.
Xơ gan: 90-95% bệnh nhân ung thư gan có nền xơ gan, mặc dù hiện nay còn chưa rõ xơ gan là yếu tố quan trọng trong lộ trình phát triển ung thư gan hay qúa trình xơ hóa và ung thư gan cùng xuất hiện đồng thời nhưng xơ hóa có thời gian ngắn hơn.
Nhiễm Virus viêm gan: Nhiễm virus viêm gan B,C làm tăng nguy cơ phát triển ung thư gan gấp 100 lần so với người không bị nhiễm. Tần suất xuất hiện ung thư gan ở người nhiễm virus viêm gan B mạn tính khoảng 0.5% mỗi năm, ở bệnh nhân xơ gan do virus viêm gan B là 2-6% mỗi năm và có thể cao hơn ở bệnh nhân xơ gan do virus viêm gan C.
Diễn tiến tự nhiên của ung thư gan? Đa số trường hợp ung thư gan phát triển chậm, giai đoạn tăng trưởng không triệu chứng có thể kéo dài nhiều năm. Thời gian khối u gan lớn gấp đôi thay đổi từ 1 đến 19 tháng, trung bình là 6 tháng.Thời gian sống còn của bệnh nhân ung thư gan không điều trị phụ thuộc vào mức độ xơ gan và kích thước u tại thời điểm phát hiện. Khoảng 50-90% bệnh nhân u gan/ xơ gan còn bù (Child-Pugh A) có thể sống sau 1 năm so với 20% bệnh nhân xơ gan mất bù (Child-Pugh C) có u gan. Khoảng 80-100% bệnh nhân có u gan kích thước nhỏ hơn 5 cm có thể sống sau 1 năm và 17-21% sau 3 năm.
Các kỹ thuật tầm soát ung thư gan?
- Một xét nghiệm máu không thể thiếu được trong việc tầm soát và chẩn đoán ung thư gan, đó là xét nghiệm định lượng chất AFP (Alpha- FoetoProtein) trong máu. Chất AFP là một protein do các tế bào ung thư tiết ra. Giới hạn bình thường của chỉ số AFP là 10-29 ng/ml. Nồng độ AFP lớn hơn 400 ng/ml hoặc nhỏ hơn 400 ng/ml nhưng tăng theo thời gian là có giá trị chẩn đoán. Tuy nhiên 2/3 các trường hợp u gan nhỏ hơn 4 cm có nồng độ AFP nhỏ hơn 200 ng/ml và khoảng 20% u gan không tổng hợp AFP kể cả khi u lớn. Nồng độ AFP trong khoảng 20-200 ng/ml cũng thường gặp ở bệnh nhân xơ gan.
- Siêu âm cũng được sử dụng trong tầm soát u gan. Kỹ năng của bác sỹ siêu âm và chất lượng máy đóng vai trò quan trọng cho kết quả phát hiện; 85-95% u gan kích thước 3-5 cm và 60-80% u gan kích thước 1-3 cm có thể được phát hiện. Siêu âm kiểm tra gan được khuyến cáo thực hiện mỗi 6 tháng. Bệnh nhân có AFP tăng nhưng không phát hiện u gan bằng siêu âm được đề nghị kiểm tra thường xuyên hơn như mỗi 3 tháng.
- Kết hợp kiểm tra siêu âm và AFP làm tăng khả năng phát hiện u gan. Các nghiên cứu tiền cứu sử dụng kết hợp siêu âm và AFP để tầm soát u gan trên nhóm bệnh nhân xơ gan cho thấy 64-87% u gan được phát hiện là đơn độc, 43-74% u có kích thước nhỏ hơn 3 cm và 29-66% u gan được phát hiện có khả năng phẫu thuật triệt để.
Các kỹ thuật chẩn đoán ung thư gan? Ngoài các triệu chứng lâm sàng, xét nghiệm AFP máu, siêu âm 3 – 4 D, sinh thiết gan, hiện nay, do các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh phát triển mạnh, đặc biệt là CT Scanner đa lát cắt (MSCT), MRI cho phép chẩn đoán ung thư gan chính xác.
Các phương pháp điều trị ung thư gan? - Phẫu thuật cắt khối u gan
- Ghép gan
- Thuyên tắc hóa-dầu động mạch gan (TOCE)
- Tiêm cồn, axít axetic vào bướu qua da
- Đốt u bằng sóng viba và sóng cao tần
- Xạ trị ngoài và trong
- Áp lạnh
- Điều trị nội tiết
- Điều trị miễn dịch
- Điều trị gien
- Hóa trị
Ghép gan. Phát triển kỹ thuật ghép gan đã giúp cho tiên lượng sống còn của bệnh nhân tốt hơn. Tuy nhiên nó giới hạn đối với những bệnh nhân có khối u < 5 cm đường kính, và có ít hơn 3 khối u, không có bằng chứng của việc di căn ngòai gan, kèm theo thể trạng còn tốt.
Phẫu thuật cắt bỏ khối u. Cắt bỏ khối ung thư là phương pháp điều trị tốt nhất. Tuy nhiên, phương pháp cắt bỏ khối u gan tùy thuộc vào:
o Thời điểm phát hiện khối u. Ở nước ta 80% các trường hợp ung thư gan được phát hiện vào thời điểm khối u đã lớn hay đã di căn không còn khả năng cắt bỏ.
o Tình trạng của gan. Nếu khối ung thư phát triển trên nền gan đã bị xơ hóa nhiều thì khả năng cắt bỏ rất hạn chế. Khi khối u còn nhỏ (thường là dưới 5 cm), nằm ở 1 thùy của gan và gan chưa bị xơ nhiều thì có thể mỗ cắt bỏ khối u. Tuy nhiên sau khi phẫu thuật, 50% ung thư gan có thể bị tái phát trong vòng 5 năm. Nguyên nhân là do tế bào ung thư đã lan đi xa ra chỗ khác mà trong lúc mỗ không phát hiện được do u còn sót.
o Tình trạng sức khỏe của bệnh nhân. Nếu bệnh nhân quá suy kiệt hay có những bệnh nội khoa nặng khác, khả năng chịu đựng qua cuộc phẩu thuật là rất giới hạn
Những kỹ thuật không xâm lấn. Những kỹ thuật không xâm lấn được phát triển gần đây và được coi là có hiệu quả tương tự như phẫu thuật cắt bỏ khối u, bao gồm tiêm alcohol và cắt bỏ u bằng sóng radio, thuyên tắc hoá dầu động mạch gan.