Diễn Đàn Bác Sĩ Y Học Dự Phòng
Diễn Đàn Bác Sĩ Y Học Dự Phòng
Diễn Đàn Bác Sĩ Y Học Dự Phòng
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn Đàn Bác Sĩ Y Học Dự Phòng

TƯƠNG LAI LÀ DO CHÚNG TA QUYẾT ĐỊNH
 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
524 Số bài - 36%
429 Số bài - 29%
311 Số bài - 21%
116 Số bài - 8%
30 Số bài - 2%
24 Số bài - 2%
12 Số bài - 1%
11 Số bài - 1%
10 Số bài - 1%
8 Số bài - 1%

Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Empty Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Empty

Similar topics
Admin nhắn với tất cả: xi lỗi trong thời gian qua do bạn công tác nên admin vắng nhà bây giờ admin đã trở lại sẽ làm cho diễn đàn tươi mới hơn              mr_soc nhắn với ydp10: co ai la dan ydp tp hcm ko.cung lam wen giup do mhau trong hok tap nha                 
Bạn phải đăng nhập để gửi Thông điệp
Tài khoản:Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập:
:: Quên mật khẩu
Bạn phải đăng nhập để gửi Thông điệp
Tài khoản:Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập:
:: Quên mật khẩu
Gửi đến :
Emoticon
Lời nhắn :

|
Bookmarks

Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down
Tue Mar 22, 2011 1:24 pm
không có việc gì khó, chỉ tại không biết làm
avatar
vodanh1402
menber

Cấp bậc thành viên
Danh vọng:
116%/1000%

Tài năng:34%/100%

Liên lạc

Thông tin thành viên
» Nam
» Tổng số bài gửi : 116
» Points : 328
» Reputation : 6
» Join date : 11/11/2010
» Age : 34
» Hiện giờ đang:

Bài gửiTiêu đề: Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN


Các bạn
đã từng đọc qua sách sử Việt Nam chắc hẵn đã để ý là các ông vua có rất nhiều
tên, hiệu và chắc các bạn cũng đã có lần tự hỏi là làm gì mà phải có nhiều tên
như thế ? Trước khi đi vào phần lịch sử, tôi nghĩ cũng nên nhắc lại vài
điều căn b
ản.
Thời vua chúa lúc dân ta chưa
biết Tây lịch, để xác định thời gian cho một dữ kiện đã
xãy ra, dân ta dùng niên hiệu của ông vua đương th
ời.
Niên hiệu : Khi một ông vua lên
ngôi
đều tự lấy cho mình
một niên hiệu để đánh dấu cái giai đoạn mà mình trị vì và
tất cả những dữ kiện xảy ra sẽ được ghi lại so với cái
niên hiệu của mình. Thí dụ người ta nói "Tự Ðức năm thứ
2", "Minh Mạng năm thứ 6", .... (thay vì năm 1848, năm 1825,
...) Với cách ghi thời gian kiểu nầy thì có cái lợi là biết
câu chuyện đó xảy ra dưới thời vua nào nhưng cái bất lợi là
khó mà biết được cái nào xảy ra trư
ớc
cái nào xảy ra sau nếu không giỏi sử học.



Miếu hiệu : Tên hiệu của ông vua đã
chết. Khi một ông vua đã mất, ông vua sau lên kế vị và đặt miếu
hiệu cho vị vua trước như là phong chức tước hay tôn vinh ngư
ời
quá cố. Ví dụ, miếu hiệu của vua Gia Long là Thế Tổ, miếu hiệu
vua Minh Mạng là Thánh Tổ. Dĩ nhiên có nhiều ông vua không có miếu
hiệu.

Tên Húy: Tên thật do cha mẹ đặt
khi mới sanh, một người có thể có nhiều tên húy, thường
được người ta kiêng không gọi đến. Ví dụ tên húy của vua
Minh Mạng là Ðảm (Nguyễn Phúc Ðảm), tên húy của vua Tự Ðức
là Hồng Nhậm (Nguyễn Phúc Hồng Nhậm). Xưa người mình thường
hay kỵ húy, kiêng, tránh không được nhắc đến tên. Ví dụ
vua Minh Mạng có bà phi tên là Hồ Thị Hoa. Vì kỵ húy bà nên cầu
Hoa ở Sài Gòn đã được đ
ổi
tên lại là cầu Bông.

Ngoài những loại tên nầy, các vua còn
có thể có nhiều chức tước khác nhau !

Mục lục:


Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Fl_rougeVua
Gia Long



Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Fl_rougeHoàng
tử Cảnh



Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Fl_rougeVua
Minh Mạng



Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Fl_rougeVua
Thiệu Trị



Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Fl_rougeVua
Tự Ðức



Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Fl_rougeVua
Dục Ðức



Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Fl_rougeVua
Hiệp Hoà



Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Fl_rougeVua
Kiến Phúc



Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Fl_rougeVua
Hàm Nghi



Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Fl_rougeVua
Ðồng Khánh



Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Fl_rougeVua
Thành Thái



Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Fl_rougeVua
Duy Tân



Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Fl_rougeVua
Khải Ðịnh



Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Fl_rougeVua
Bảo Ðại






Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Gialong_small

Niên hiệu

Gia Long
Năm sanh, năm mất

1762-1820
Giai đoạn trị vì

1802-1820
Miếu hiệu

Thế Tổ Cao Hoàng Ðế
Tên Húy

Nguyễn Phúc Ánh


Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, năm
Ất Dậu (1765), Chúa Vũ Nghuyễn Phúc Khoát mất. Quyền thần Trương
Phúc Loan chuyên quyền thay Chúa đổi ngôi, đưa Nguyễn Phúc Thuần
mới 12 tuổi lên ngôi Chúa để dễ bề khống chế. Từ đó Ðàng
Trong bắt đầu đi vào con đường suy thoái, sưu cao thuế nặng, khắp
nơi đều vang lên tiếng than oán và cuối cùng dẫn đến việc ba
anh em nhà Tây Sơn khởi nghĩa năm Quí T

(1773). Lợi dụng lúc Ðàng Trong có nội loạn, Chúa Trịnh xua quân
qua sông Linh Giang tấn công Phú Xuân (Huế). Phú Xuân thất thủ,
tôi chúa họ Nguyễn phải chạy vào Gia Ðịnh, chấm dứt sự nghiệp
của Chúa Nguyễn ở Ðàng Trong.

Trong số người
chạy loạn có Nguyễn Ánh lúc bấy giờ mới 13 tuổi. Nguyễn Ánh
là con của hoàng tử Nguyễn Phúc Côn và bà Nguyễn Thị Hoàng.
Nguyễn Ánh (hay Nguyễn Phúc Ánh) sinh ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm
Ngọ (1762), thuở thiếu thời đã tỏ ra là một con người có chí
và thông minh vì thế rất được Chúa yêu, tuy còn nhỏ nhưng ông
được Chúa phong cho chức Chưởng sứ, ông đã tỏ ra là một tư
ớng
cầm quân có tài.

Năm Tân
Dậu (1777), Nguyễn Huệ đem quân vào đánh chiếm Gia Ðịnh, Chúa
tôi họ Nguyễn phải bỏ thành kéo tàn quân chạy về Ðịnh Tường,
Cần Thơ. Quân Tây Sơn truy lùng gắt gao, bắt được và giết Tân
Chính Vương Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Ánh bắt đầu một cuộc sống
long đong v
à vất vả.
Vài năm
sau, Nguyễn Ánh lấy lại được Sài Côn (Saigon) rồi tiến ra lấy
lại Bình Thuận. Năm Canh Tí (1780) Nguyễn Ánh lên ngôi Vương ở
Gia Ðịnh. Năm Nhâm Dần (1782), thấy thế lực Nguyễn Vương ngày
càng mạnh, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ kéo quân vào đánh, Saigon
thất thủ, Nguyễn Vương lại bôn tẩu về Hà Tiên rồi chạy ra
đ
ảo Phú Quốc.
Nguyễn Vương
vốn là con người có chí nên ông bất chấp gian khổ, canh cánh
trong lòng một mối thù phục quốc. Chính vì thế nên khi biết
được Giám mục Pháp Bá Ða Lộc (Pigneau de Béhaine), người có uy
tín và thế lực tại Pháp thời bấy giờ đang ở Ðàng Trong ,
Nguyễn Vương không ngần ngại cho mời giám mục tới và nhờ
giám mục làm sứ giả trong việc cầu viện Pháp. Nguyễn Vương đã
để cho con trư
ởng của mình
là Nguyễn Phúc Cảnh mới 4 tuổi theo Giám mục Bá Ða Lộc sang
Pháp làm con tin.

Trong thơ
cho Vua Pháp (Louis XVI), Nguyễn Vương xin Pháp giúp 1.500 lính và tàu
bè, súng ống, vật dụng. Ðể đền bù, Pháp được độc quyền
buôn bán ở nước Việt Nam, nhường cho nước Pháp đảo Côn Lôn
(Côn đ
ảo), và cảng Hội
An (có sách nói là cảng Ðà Nẵng).

Giám mục Bá Ða Lộc ký được
hiệp ước Versailles với Pháp ngày 28-11-1787, vua Pháp giao
trách nhiệm thi hành hiệp ước cho một ông tướng đống quân
ở Ấn Ðộ nhưng ông nầy không thích Giám mục Bá Ða Lộc
nên nói ra với vua Pháp và cũng vì nước Pháp đang bị nội
loạn nên rốt cuộc vua Pháp không thi hành hiệp ước. Chờ mãi
không được, Giám mục Bá Ða Lộc bỏ tiền riêng để mướn
một số lính đánh thuê rồi trở về Việt Nam. Năm 1789 thì
Hoàng tử về đến Gia Ðịnh
.

Khi đưa
con đi rồi Nguyễn Vương cũng từ giã mẹ và vợ để sang Xiêm La
(Thái Lan) cầu cứu. Tới tháng 6 năm 1784 thì vua Xiêm cho tướng
Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem 20 vạn quân và 300 chiếc thuyền
sang giúp Nguyễn Vương. Lúc đầu quân Xiêm đại thắng chiếm nhiều
tỉnh Kiên Giang, Trà Ôn, Sa Ðéc. Sau đích thân Nguyễn Huệ đem đại
quân vào đánh, quân Xiêm thua bỏ chạy về nước, Nguyễn Vương
cũng ch
ạy theo về Xiêm La
lánh nạn.

Tháng 5 năm
Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ theo kế của Nguyễn Hữu Chỉnh tiến
chiếm Phú Xuân rồi rồi thừa thắng tiến ra Thăng Long (Hà Nội)
diệt họ Trịnh. Việc Nguyễn Huệ ra Bắc làm cho Nguyễn Nhạc
(anh của Nguyễn Huệ) nghi ngờ nên cũng vội vã đem quân ra Bắc,
hai anh em gặp nhau ở Thăng Long rồi cùng về. Nguyễn Huệ được
đóng quân ở Phú Xuân và được phong là Bắc Bình Vương. Từ đó
anh em Tây Sơn đã có mầm móng bất hoà, nhiều lần hai anh em đã
đem quân đánh nhau.

Vì ham tranh quyền nên anh em Tây Sơn
đã không ngó ngàng gì đến các xứ Ðàng Trong nhất là từ Qui Nhơn
(Bình Ðịnh) trở vào, lợi dụng thời cơ đó, Nguyễn Vương đã
cùng với các bộ tướng củ, tháng 9 năm Ðinh Mùi (1787), trở về
nước. Nguyễn Vương đã được dân miền Nam giúp đở rất nhiều,
có nhiều tướng giỏi đến phò như Võ Tánh, nên chẳng mấy chốc
lực lượng Nguyễn Vương đã lớn mạnh. Ðông Ðịnh Vương Nguyễn
Lữ phải bỏ Gia Ðịnh trở về Qui Nhơn. Nguyễn Vương lấy toàn
bộ xứ Gia Ðịnh đặt làm bản doanh rồi bắt đầu tổ chức việc
cai trị. Năm Canh Tuất (1790) Nguyễn Vương cho đắp lại thành Gia
Ðịnh theo kiểu bát quái có 8 cửa xây bằng đá ong.

Thấy Nguyễn Vương lớn mạnh, tháng
3 năm Nhâm Dần (1782) vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc nhà Tây Sơn đem
quân vào đánh nhưng bị quân Nguyễn Vương đánh lui. Kể từ đó
về sau, quân Tây Sơn luôn thất bại khi đem quân vào đánh.


Ở Phú Xuân, Bắc Bình Vương
Nguyễn Huệ lại tiến quân ra Bắc diệt nhà Lê rồi cho Ngô Văn Sở
và Ngô Thời Nhiệm ở lại để cai trị Bắc Hà. Vua Lê Chiêu Thống
chạy sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh. Nhà Thanh sai Tôn Sĩ Nghị
đem 20 vạn quân sang đánh. Ðược tin, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ
lên ngôi Hoàng Ðế ở Phú Xuân lấy hiệu là Quang Trung thống
lãnh đại quân tiến ra Bắc đánh tan 20 v
ạn
quân nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị phải chạy thoát thân bỏ quên cả ấn
tín.

Năm Nhâm
Tý (1792) vua Quang Trung băng hà, con là Quang Toảng lên ngôi mới 10
tuổi, vì thế Vương nghiệp triều Tây Sơn nhanh chóng rơi vào suy
vong.


Ðược
tin vua Quang Trung băng hà, Nguyễn Vương rất vui mừng, đẩy mạnh
việc chuẩn bị đánh Tây Sơn. Dưới trướng Nguyễn Vương lúc bấy
giờ có nhiều quan chức người nước ngoài như Dayot (Ông Trí),
Philippe Vannier (Ông Chấn), Guilloux, Laurent Barisy (Ông Mân), De
Forçant (Ông Lăng), Jean Baptiste Chaigneau, Olivier de Puymanel (Ông Tín),
Theodore Lebuen. Những quan chức nầy là những cố vấn kỹ thuật
cho Nguyễn Vương trong lãnh vực quân sự, vũ khí, đ
ấp
thành, v.v...

Cuộc chiến kéo dài đến
năm Tân Dậu (1801) Nguyễn Vương chiếm lại được Phú Xuân, và
ngày mồng 2 tháng 5 năm Nhăm Tuất (1802) Nguyễn Vương lên ngôi lấy
niên hiệu là Gia Long. Lên ngôi xong vua Gia Long đưa quân tiến ra đất
Bắc, quân Tây Sơn tan rã lần hồi. Ðến tháng 6 cùng năm thì vua
Gia Long đã thống nhất được sơn hà, chấm dứt cuộc chiến
tranh kéo dài gần 300 n
ăm.

Ngài ra lệnh quật mả vua Nguyễn
Nhạc và vua Nguyễn Huệ lên, đem vứt thây đi còn đầu thì đem bỏ
giam trong ngục tối (có sách viết là đốt thây thành tro rồi đổ
xuống sông, còn sọ thì làm gáo đựng nư
ớc
tiểu).

Vua sai sứ sang Tàu cầu phong và xin đổi
quốc hiệu là Nam-Việt, nhưng vì đất Nam-Việt đã có bên Tàu đời
nhà Triệu ngày trước nên Thanh triều mới đổi chữ Việt lên
trên, gọi là Việt-Nam đ

cho khỏi lầm với tên củ.

Ở trong cung, nhà vua không đặt
ngôi Hoàng hậu, chỉ có ngôi Hoàng phi và các cung tần. Sau khi vua
mất, thì con lên ngôi, mới tôn mẹ lên làm Hoàng Thái Hậu.

Bỏ chức Tể tướng,
lập ra 6 bộ, đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng Thư:

-B
Lại : coi việc khảo xét công trạng, thảo những tờ chiếu sắc,
v.v...

-Bộ Hộ : coi việc đinh
đi
ền thuế má, tiền bạc,
v.v...

-Bộ Lễ : coi việc tế tự, tôn phong, cách thức
học hành thi cử, v.v...

-Bộ Binh : coi việc binh lính, v.v...
-Bộ Hình : coi việc pháp luật, v.v...
-Bộ Công : coi việc làm cung điện,
dinh thự, v.v...

Ngài lập Văn
Miếu ở các trấn thờ đức Khổng Tử. Mở trường lớn ở Kinh
đô để dạy con các quan và các sĩ-tử (sau nầy vua Minh Mạng đổi
tên là Quốc Tử Giám). Mở khoa thi Hương để kén lấy những ngư
ời
có học ra làm quan...

Vua Gia Long không theo đạo
Thiên Chúa dù Ngài rất biết ơn Giám mục Bá Ða Lộc và có nhiều
thiện cảm với các giáo sĩ, nhưng Hoàng tử Cảnh đã theo đạo
khi ở chung với Giám mục Bá Ða Lộc. Một lá thư của Cha
Lelabousse viết vào tháng 6-1792 cho biết : "Trong buổi lễ được
tổ chức vào khoãng cuối tháng 7-1789, Hoàng tử Cảnh nhất định
không đến lạy trước bàn thờ tổ tiên đã làm cho Nguyễn Vương
đau khổ tủi nhục và tức giận, vứt bỏ phẩm phục, mũ niệm,
nói rằng ông là một ngư
ời
cha bất hạnh".

Nhưng
vua vẫn một lòng kính trọng Giám mục, trong một lá thư của Giám
mục viết cho Hội truyền giáo hải ngoại năm 1795, Giám mục kể
rằng trong năm đó có mười chín ông quan trong triều đình viết sớ
đưa lên cho Nguyễn Ánh xin Ngài thận trọng đừng để Giám mục
lo việc giáo huấn Hoàng tử Cảnh. Nguyễn Vương nổi trận lôi đình,
vứt sớ xuống đất và kể những công trạng của Giám mục đối
với gia đình và sự nghiệp của Vương. Nguyễn Ánh hăm dọa là sẽ
phạt thẳng tay những người có ý nghĩ xấu nầy. Xong Vương vào
hậu cung kể lại cho vợ nghe và hai người quyết đ
ịnh
là giấu chuyện nầy không cho Giám mục biết.

Ngày 19 tháng 12 năm
Canh Thìn (3-2-1820) vua Gia Long băng hà thọ 58 tuổi (theo Trần Trọng
Kim thì Ngài mất n
ăm 1819).


Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Hoang-tu-canh_small
Hoàng tử Nguyễn
Phúc Cảnh sanh ngày 2 tháng 3 năm Canh Tý (6-4-1780) tại Gia
Ðịnh, con của Nguyễn Ánh và bà Tống Thị Lan (sau là Thừa
Thiên Cao Hoàng hậu).

Năm 4 tuổi, Hoàng tử được gởi
theo Giám mục Bá Ða Lộc sang Pháp cầu viện, tới năm 1789 mới
trở về với gia đình. Mùa xuân năm Quí Sửu (1792) Hoàng tử
lên 14 tuổi, Nguyễn Vương lập ông làm Ðông Cung, phong chức
Nguyên Súy Quận công, chọn các đại thần giúp đở để
ông quen chuyện chính trị. Trong các phụ đạo (thầy dạy) có
Trịnh Hoài Ðức, Lê Quang Ðịnh và Ngô Tùng Châu.

Năm Ðinh Tỵ (1797) ông theo Nguyễn
Vương đi đánh Qui Nhơn, rồi đáng Quản Nam, khi quân trở về
Thái tử tâu xin cho soạn Hiển trung chư thần liệt truyện để
chép truyện các bậc tôi trung đời trước để khuyến khích
mọi người , được Nguyễn Vương chấp thuận.

Mùa Xuân năm Tân Dậu Thái tử bị
bệnh đậu mùa và mất vào ngày 7 tháng 2 năm Tân Dậu
(20-3-1801), thọ 22 tuổi. Ông có hai người con trai. Con trưởng
là Nguyễn Phúc Mỹ Ðường (còn có tên là Ðán), con thứ là
Nguyễn Phúc Mỹ Thùy (còn có tên là Kính). Ông Kỳ Ngoại Hầu
Cường Ðể là cháu năm đời của Hoàng tử Cảnh.




Trở lại đầu
trang


Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Vua_Minh_Mang_small
Niên hiệu

Minh Mạng
Năm sanh, năm mất

1791-1840
Giai đoạn trị vì

1820-1840
Miếu hiệu

Thánh Tổ Nhân Hoàng Ðế
Tên Húy

Nguyễn Phúc Kiểu, Nguyễn
Phúc Ðảm


Vua Minh Mạng tên là Nguyễn Phúc Ðảm, sanh năm
Tân Hợi (1791) tại làng Tân Lộc, tỉnh Gia Ðịnh, con thứ tư của
vua Gia Long và bà Thuận Thiên Trần Hoàng hậu. Khi Hoàng tử Cảnh
mất thì Ngài được lập làm Thái tử, khi vua Gia Long băng hà,
theo di chiếu Ngài lên nối ngôi, lúc nầy đã 30 tuổi và đ
ổi
niên hiệu là Minh Mạng.

Ngài tiếp tục việc tu sửa lại kinh thành Huế,
công trình kiến trúc quan trọng nhất d
ưới
thời Minh Mạng là cửa Ngọ Môn. Các sách đều khen ông là một
nhà vua văn võ kiêm toàn (nhưng theo một lá thư của một vị Giám
mục người Pháp thì Vua không có tài văn chương gì cả mà chỉ
do các ông quan nịnh bợ Vua hùa theo ca tụng). Vua Minh Mạng bắt đầu một cuộc cải cách
từ nội trị đ
ến ngoại
giao.

Về mặt nội trị, nhà vua bỏ hầu hết các
dinh, các trấn mà thành lập các tỉnh (31 tỉnh), thành lập Nội
các và C
ơ mật viện để
cùng với vua bàn chuyện nước (tới thời Bảo Ðại mới bị giải
tán). Lập Quốc Tử Giám. Bắt đầu mở các khóa thi Hội, thi
Ðình để lấy tiến sĩ (tới thời Khải Ðịnh mới bị giải tán). Lập Quốc sử quán để góp nhặt những
chuyện làm quốc sử. Phát thưởng cho những ai tìm đư
ợc
sách củ hay làm ra sách mới v.v...

Các nước
láng giềng xa gần đều gởi sứ thần đến thông hiếu và vua cũng
cử nhiều phái đoàn đến các nước đó để ban giao. Năm Mậu Tuất
(1838) vua Minh Mạng đổi tên nư
ớc
là Ðại Nam.

Ngài không thích đạo
Thiên Chúa nên không cho người ngoại quốc vào giảng đạo ở
trong nước, Ngài có ra dụ (sắc lệnh) nói rằng : "Ðạo phương
Tây là tả đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục,
cho nên phải nghiêm cấm để khiến người ta phải theo chính đạo".
Lúc bấy giờ không phải là một mình vua ghét đạo Thiên Chúa mà
thôi, phần nhiều những quan lại cũng đều một ý cả, cho nên sự
cấm đạo lại càng nghiệt thêm. Nhưng mà dẫu cắm thế nào mặc
lòng, vẫn có người đi giảng đạo Thiên Chúa, nhà vua lấy điều
đó làm trái phép nên ra dụ lần nữa nói rằng ai bắt được giáo
sĩ đem nộp thì được thưởng. Năm ấy ở Huế có một người
giáo sĩ phải xử giảo, và các nơi cũng rối loạn vì sự bắt đạo
và giết đạo. Việc cấm đạo nầy cứ dai-đẳng mãi đến khi
ớc Pháp sang bảo hộ mới
thôi.

Cũng vì việc cấm đạo
Thiên Chúa cho nên sự buôn bán với người nước ngoài cũng bị cản
trở vì Triều đình thấy thỉnh thoảng khi có chiếc tàu buôn lại
thì lại có một vài người giáo sĩ Thiên Chúa giáo trên đó nên
càng lạnh nhạt với người nước ngoài. Vua từ chối không tiếp
một tàu ngoại quốc nào cả ngay cả tàu Pháp. Hai ông quan người
Pháp (Chaigneau và Vannier) làm trong triều đình từ thời Gia Long thấy
vua Minh Mạng có vẻ không thích người ngoại quốc nên cũng xin từ
chức rồi đem gia đ
ình trở
về Pháp.

Sau nầy vua Pháp có gởi sứ giả sang xin ban
giao với Việt Nam nh
ưng
vua Minh Mạng không tiếp, nước ta coi như bế quan tỏa cảng từ
đó.

Vua Minh Mạng mất năm Canh Tí
(1840), thọ 50 tuổi, trị vì được 21 năm


Trở lại đầu
trang



?
Niên hiệu

Thiệu
Trị
Năm sanh, năm mất

1807-1847
Giai đoạn trị vì

1841-1847
Miếu hiệu

Hiến Tổ Chương Hoàng
Ðế
Tên Húy

Nguyễn Phúc Tuyền,
Nguyễn Phúc Miên Tông


Vua Minh Mạng băng
hà, người con trưởng của vua là Hoàng Tử Nguyễn Phúc Tuyền,
húy là Miên Tông sinh năm Ðinh Mão (1807) được di mệnh nối ngôi
lấy niên hiệu là Thiệu Trị. Sách nói vua Thiệu Trị là một người
hiền hoà, siêng năng cần mẫn nhưng không có tính hoạt động
như vua cha. Mọi việc đều noi theo cũ không có gì đ
ổi
mới.

Ông nổi tiếng là ông vua thi sĩ, có để
lại rất nhiều bài thơ, nổi tiếng nhất là hai bài thơ chữ Hán
có tên là Vũ Trung Sơn Thủy (cảnh trong mưa) và Phước Viên Văn hội
lương dạ mạn ngâm (Ðêm thơ ở Phước Viên). Cả hai bài không
trình bài theo lối thường mà viết thành năm cái vòng tròn đồng
tâm, mổi vòng tròn có một số chữ, đếm mỗi bài có 56 chữ,
ứng với một bài thơ thất ngôn bát cú, nhìn vào như một
"trận đồ bát quái", vua có chỉ cách đọc và đố là kiếm
ra 64 bài thơ trong đó nhưng tới nay chưa ai kiếm ra đư
ợc
hết.

Dưới
thời nầy đất Nam-kỳ có nhiều giặc giã, dân Chân-Lạp nổi loạn
và quân Tiêm-La sang đánh phá, vua phải dùng binh đánh dẹp mãi tới
năm Thiệu Trị thứ bảy (1847) mới yên đư
ợc.
Từ khi vua Thiệu Thị lên ngôi thì việc cấm đạo
Thiên Chúa mới nguôi đi được một ít, nhưng triều đình vẫn
ghét đạo, và những giáo sĩ ngoại quốc vẫn còn bị giam ở Huế.
Có người đưa tin ấy cho trung tá nước Pháp tên là Favin Lévêque
coi tàu Héroïne, ông nầy đem tàu vào Ðà Nẵng xin cho năm người
giáo sĩ được tha. Năm Thiệu Trị thứ năm (1845) có người Giám
mục tên Lefèbvre phải án xử tử. Thiếu tướng nước Pháp là
Cécile biết, sai quân đem t
àu
Alcmène vào Ðà Nẵng lĩnh giám mục ra.

Năm Ất
Tỵ (1847) quan nước Pháp biết rằng ở Huế không còn giáo sĩ bị
giam nữa, mới sai đại tá De Lapierre và trung tá Rigault de Genouilly
đem hai chiếc chiến thuyền vào Ðà Nẵng, xin bỏ những chỉ dụ
cấm đạo và để cho người trong nước được tự do theo đạo mới.
Lúc hai bên còn đang thương nghị về việc ấy thì quan nước Pháp
thấy thuyền của ta đóng gần tàu của Pháp và ở trên bờ lại
thấy có quân ta đấp đồn lũy, mới nghi có sự âm mưu gì chăng
bèn phát súng bắn đ
ắm cả
những thuyền ấy, rồi nhổ neo kéo buồm ra bể.

Vua Thiệu Trị thấy vậy tức giận vô cùng, lại
có dụ (sắc lệnh) ra cấm ng
ười
ngoại quốc vào giảng đạo và trị tội những người trong nước
đi theo đ
ạo. Vài tháng
sau thì vua lâm bệnh nặng.

Nguyễn Phúc Hồng Bảo là con trưởng
của vua Thiệu Trị (nhưng lại không phải là con của chánh phi Phạm
Thị Hằng mà là con của bà phi Ðinh Thị Hạnh). Bảo vốn là người
ham chơi, không chịu học hành, tổi ngày chỉ lo đánh bạc. Vua Thiệu
Trị có la rầy nhiều lần nhưng không đư
ợc.
Khi vua lâm bệnh nặng, cho đòi
các quan đại thần vào trối. Trương Ðăng Quế, Võ Văn Giải,
Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Hiệp vào chầu. Ngài phán rằng Hồng
Bảo tuy lớn nhưng ngu độn, ít học, chỉ ham vui chơi, nối nghiệp
không đặng, con thứ hai là Hồng Nhậm, thông minh, ham học giống
vua có thể cai trị nước được. Vua yêu cầu các quan phải thi
hành tờ di chiếu của vua để lại. Triều thần khóc, bái lạy
và gọi Hồng Nhậm đến trao ấn và kiếm. Hồng Bảo được tin,
tức giận đem thân binh vào nhưng bị quan Phạm Thế Lịch đem quân
cản lại chỉ để cho một mình Hồng Bảo vào mà thôi. Hồng Bảo
vào gặp vua lạy lục, vua quay mặt đi không trả lời, Phạm Thế
Lịch và Vũ Văn Giải đưa Hồng Bảo ra hậu cung và cầm giữ ở
đó. Mấy ngày sau thì vua băng hà tại điện Càn Thành (1847), làm
vua được 7 năm, th
ọ 40
tuổi (theo Nguyễn Phúc tộc gia phả).



Trở lại đầu
trang


Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Vua_Tu_Duc_small
Niên hiệu

Tự Ðức
Năm sanh, năm mất

1829 -1883
Giai đoạn trị vì

1847-1883
Miếu hiệu

Dực Tông Anh Hoàng Ðế
Tên Húy

Nguyễn Phúc Thì,
Nguyễn Phúc Hồng Nhậm


Hồng Nhậm lên ngôi lúc
19 tuổi, lấy niên hiệu là Tự Ðức, việc lên ngôi của Tự Ðức
bị nhiều người nghi ngờ nên cũng có người chống. Hồng Bảo
(anh Tự Ðức) âm mưu với một số người để tìm cách giành lại
ngai vàng. Việc bại lộ, Hồng Bảo bị hạ ngục và bị kết án
tử hình. Tự Ðức tha chết cho anh nhưng cho lệnh giam lại, nhưng
không hiểu sao Hồng Bảo thắt cổ chết trong ngục (có sách viết
là bị ép uống thuốc độc). Cái chết của Hồng Bảo trở thành
một nghi án. Vua Tự Ðức sợ sau nầy sử không chép đúng sự thật
nên tự mình kể lại cuộc đời của mình và cho khắc vào bia đá
lớn để lại cho hậu thế, bia nầy ngày nay vẫn còn ở trong lăng
T
ự Ðức.
Người
ở trong nước chia ra làm bốn hạng là : sĩ, nông, công, thương.
Sĩ : là hạng người chuyên nghề đi học, thầy thuốc, thầy bói,
v.v... những nghề phong lưu nhàn hạ. Nông : là hạng người chuyên
nghề làm ruộng. Công : là hạng người làm thợ hoặc làm một
công nghệ gì để lấy lợi (dệt vải, làm mắm muối, v.v...). Thương
: là hạng ngư
ời làm nghề
buôn bán.

Ðời vua Tự Ðức có rất nhiều loạn lạc (giặc
cờ Ðen, cờ vàng, cờ Trắng, nội loạn, phò Lê diệt Nguyễn
v.v...) và cũng là giai
đoạn
đầu mà Pháp đánh Vi
ệt
Nam.

Năm Tự
Ðức thứ 9, có chiến thuyền "Catinat" vào cửa Ðà Nẵng
rồi cho người đem thư lên trách triều đình Việt Nam về việc
giết đạo Thiên Chúa. Không được trả lời, quân Pháp bắn phá
các đồn lũy rồi bỏ đi. Có ông Giám mục Pellerin trốn được lên
tàu. Giám mục Pellerin về Pháp thuật lại cho triều đình Pháp cảnh
các giáo sĩ Thiên Chúa giáo bị đàn áp dã man ở Việt Nam, và
nói rằng chỉ cần có loạn là các tín đồ Thiên Chúa giáo sẽ nổi
lên đánh giúp, lại có bà Hoàng hậu Pháp Eugénie rất sùng đạo
nên cũng nói giúp ông Pellerin. Pháp Hoàng mới quyết ý sang đánh nư
ớc
ta.

Tháng 7 năm
Tự Ðức thứ 11 (1858), Trung tướng Pháp là Rigault de Genouilly đem
tàu Pháp và tàu Y-pha-nho (Espagne) cả thảy 14 chiếc vào cửa Ðà Nẵng
bắn phá rồi hạ thành An hải và thành Tôn hải. Theo dự trù,
trung tướng Rigault de Genouilly tính tiến đánh Huế sau khi hạ Ðà
Nẵng nhưng chờ hoài mà chẳng thấy tín đồ Thiên Chúa giáo nổi
loạn lại thấy quân ta đổ xuống ngày càng đông, quân Pháp lại
không quen khí hậu nên ngã bệnh cũng nhiều. Trung tướng Rigault de
Genouilly gây lộn với Giám mục Pellerin và viết thư về Pháp kể
tình hình, Giám mục Pellerin giận bỏ về Mã Lai. Thấy đánh Huế
chưa nổi, ông trung tướng Pháp đổi ý, quay qua đánh Gia Ðịnh
vì là nơi dể lấy hơn và là vùng trù phú hơn.


Ðầu năm
sau trung tướng Rigault de Genouilly dẩn quân Pháp và Y-pha-nho vào cửa
Cần Giờ, đánh thành Gia Ðịnh, chỉ trong 2 ngày thì thành vở.
Quan hộ-đốc Vũ Duy Ninh tự vận. Quân Pháp san phẳng thành trì
làm bình địa. Xong trung tướng Pháp lại đem quân trở ra Ðà Nẵng
đánh một trận ở đồn Phúc Ninh, quân ông Nguyễn Tri Phương thua
phải rút về giữ đồn Nại-hiên và đồn Liên-trì. Trung tướng
Rigault de Genouilly cũng bệnh nên xin về Pháp nghĩ, thiếu tướng
Page sang thay, ông đề nghị việc giảng hoà, cốt chỉ xin được
tự do giảng đạo Thiên Chúa và được buôn bán với nước ta
nhưng triều đình Huế lúc đó chỉ còn những ông quan già, chỉ
biết đạo Nho thà chết để giữ nước, không chịu nhục, không
phải là người biết mềm mỏng trong vấn đ

ngoại giao nên Vua cũng phải nghe theo.

Ðến năm
1862 thì quân Pháp đã chiếm luôn Biên Hoà và Vĩnh Long. Triều đình
mới chịu phái hai ông Phan Thanh Giản và ông Lâm Duy Tiếp vào Nam
giảng hoà với Pháp ngày 9 tháng 5 năm Nhâm Tu
ất
(1862).

Trong bản hoà ước
ấy (12 khoãn) có những khoãn nh
ư sau :

-Nước Việt Nam phải để cho giáo
sĩ Thiên Chúa Giáo nước Pháp và nước Y-Pha-Nho được tự do giảng
đạo và để dân gian được tự do theo đ
ạo.
-Nước
Việt Nam phải nhượng đứt cho nước Pháp tỉnh Biên Hoà, tỉnh
Gia Ðịnh và tỉnh Ðịnh Tường và phải đ

cho chiến thuyền của Pháp ra vào tự do ở sông Mékong (Cửu Long).

Vua Tự Ðức bắt buộc phải nhường
3 tỉnh Nam kỳ cho Pháp nhưng trong bụng vẫn muốn lấy lại vì là
đất khai nghiệp của nhà Nguyễn nên đã phái ông Phan Thanh Giản,
ông Phạm phú Thứ và ông Ngụy Khắc Ðản đem phẩm vật sang nước
Pháp và nước Y-Pha-Nho để xin chuộc lại 3 tỉnh miền Nam. Vua Pháp
hẹn sẽ suy nghĩ lại rồi trả lời sau, nhưng ông bộ trưởng hải
quân và thuộc địa Pháp Chasseloup-Laubat không chịu trả đ
ất
cho Việt Nam nên nói ra, vua Pháp nghe lời.

Triều đình
Huế cũng nghĩ là Pháp sẽ không ngừng ở đó nên sai ông Phan
Thanh Giản vào trấn giữ Miền Nam. Năm Tự Ðức thứ 20 (1867), thiếu
tướng De la Grandière kéo quân đánh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.
Ông Phan Thanh Giản biết thế chống không nổi nên bảo các quan nộp
thành trì cho đở đổ máu rồi uống thuốc độc tự vận. Toàn cảnh
đất Nam Kỳ thuộc về Pháp, thuế má, luật lệ điều gì cũng do
Pháp quyết định cả. Nước Pháp tạm ngừng cuộc chinh phục tại
đây.

Quân Pháp lấy Bắc kỳ lần thứ
nhất : 6 năm sau, ở miền Bắc có ông Jean Dupuis (tên việt là Ðồ Phổ Nghĩa)
chuyên buôn bán vũ khí, ông ta tìm đường sông để chở hàng qua
Tàu và kiếm ra đường sông Hồng nhưng bị quân triều đình làm
khó dể vì ông ta không có giấy phép. Jean Dupuis ngạo mạn kiếm
chuyện gây gổ với triều đình rồi sai người phụ tá tên Millot
vào Saigon tìm gặp viên Thống đốc Nam kỳ là Thiếu tướng hải
quân Dupré để kể tình hình và xin trợ giúp. Thiếu tướng Dupré
là người đã đễ ý tới vùng Bắc kỳ từ lâu, ông đã viết thư
về Paris xin lấy luôn đất Bắc kỳ nhưng bên Pháp lúc bấy giờ
đang yếu vì chiến tranh với nước Thổ nên ra lệnh không được
gây sự ở Bắc kỳ. Khi được Millot đến đốc thúc thì ông
Dupré quyết định hành động, ông viết thư cho Paris nói là xin
được tự quyết đ
ịnh,
ông không cần viện trợ, nếu chuyện không thành thì ông sẽ
lãnh hết trách nhiệm.

Dupré sai Trung úy hải quân Françis Garnier đem
quân ra Hà Nội giả nói là để giải quyết chuyện xích mích của
Jean Dupuis rồi kiếm chuyện để bắn vào thành Hà Nội sáng hôm rằm
năm Quí Dậu (1873). Chỉ một giờ thì thành vỡ, tướng Nguyễn
Tri Phương bị thương nặng, Pháp bắt tính giải về Saigon nhưng
Nguyễn Tri Phương không cho băng bó và nhịn ăn ch
ết.
Thành Hà Nội thất thủ, quân ta không hiểu chuyện gì hết nên cứ
thấy quân Pháp là bỏ chạy, chỉ trong 20 ngày mà mất 4 tỉnh.

Lúc bấy giờ có tướng Tàu là Lưu
Vĩnh Phúc đầu đảng của "giặc cờ đen" về hàng triều
đình Huế, vua Tự Ðức phong cho chức Ðề đốc để phụ đánh
quân Pháp. Lưu Vĩnh Phúc đem quân về đánh thành Hà Nội. Françis
Garnier đem quân ra nghênh thì bị phục kích chết ở cầu Giấy.
Paris biết chuyện nên triệu Thiếu tướng Dupré về Pháp trị tội,
Thiếu tướng Dupré tìm cách đở tội nên trở mặt, sai ông Ðại
úy hải quân Philastre ra Hà Nội để trả lại thành và 4 tỉnh bị
chiếm. Hai bên ký hoà ước năm Giáp Tuất (1874) trong đó triều đình
Huế công nhận cả miền Nam là thuộc về Pháp và Pháp cũng bồi
thư
ờng lại cho Việt Nam
bằng tàu bè và súng ống.

Quân Pháp lấy Bắc kỳ lần thứ hai : Năm
1881, có hai người Pháp tên là Courtin và Villeroi được giấy thông
hành đi lên Vân Nam (bên Tàu) nhưng khi đi đến Lào-Kay thì bị loạn
quân cản trở không đi được, viên Thống đốc Le Myre de Vilers bèn
gởi thư về Pháp nói rằng nên chiếm luôn Bắc kỳ để bảo đảm
sự lưu thông buôn bán với Tàu. Lúc đó nước Pháp đã hồi phục
lại sinh lực nên cũng có ý bành trướng ở Nam Á. Năm 1882, Thống
đốc một mặt gởi thư cho triều đình ta nói là Vua bất lực, đất
nước loạn ly, Pháp phải trấn an đất Bắc để bảo vệ quyền
lợi của dân Pháp, một mặt gởi Ðại tá hải quân Henri Rivière
ra Hà Nội, gởi tối hậu thư cho quan Tổng Ðốc Hoàng Diệu bắt
phải hàng. Ðúng 8 giờ sáng thì quân Pháp tấn công, 11 giờ thành
đ
ổ, ông Hoàng Diệu treo
cổ tự tử.

Viên Khâm sai Pháp ở Huế là Rheinart sang thương
thuyết, trong đó đòi nước Nam phải nhận nước Pháp bảo hộ
và nhường thành thị Hà Nội cho Pháp. Nhiều người trong Triều
đình nói rằng : "Nước ta trong còn Lưu Vĩnh Phúc, ngoài còn nước
Tàu, lẽ nào bó tay mà chịu" nên từ chối. Sau đó Triều đình cho
người sang cầu cứu với nước Tàu, Triều đình nhà Thanh được
dịp bèn gởi quân qua đóng hết các tỉnh Bắc Ninh và Sơn Tây.
Quân Pháp thấy quân Tàu tràn qua biên giới nên cũng xua quân đánh
luôn. Ðại tá Henri Rivière cũng bị quân cờ đen gi
ết
tại cầu Giấy.

Ðúng lúc nầy thì vua Tự Ðức mất ngày 16
tháng 6 n
ăm Quí-Mùi (1883)
trị vì 36 năm, th
ọ 55 tuổi.


Trở lại đầu
trang



?
Niên hiệu

Dục
Ðức
Năm sanh, năm mất

1853-1883
Giai đoạn trị vì

1883
Miếu hiệu

Công Tông Huệ Hoàng Ðế
Tên Húy

Nguyễn Phúc Ưng
Chân

Vua Tự Ðức vì lúc nhỏ bị bệnh
đậu mùa nên lớn không có con, nên vua có xin 3 người con trai của
2 người em làm con nuôi.

Vua nhường ngôi lại cho con trưởng
Ưng Chân, phong 3 ông đại thần Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tuờng
và Tôn Thất Thuyết làm phụ chính để giúp tân Vương. Thảm kịch
bắt đầu từ mấy câu di chiếu của Vua Tự Ðức viết về đạo
đức và trách nhiệm của Ưng Chân:

"Vì tiên liệu Trẫm đã nuôi sẵn
ba con. Ưng Chân lớn tuổi nhất, từ lâu đã đến tuổi trưởng
thành, tuy nhiên mắt hơi có tật, dù xưa nay vẫn dấu kín, sợ sau
nầy không còn thấy sáng, tánh lại hiếu dâm, vì tâm tính rất xấu,
không chắc đảm đương nổi việc lớn. Nhưng đất nước cần có
vua lớn tuổi. Trong thời thế khó khăn nầy không dùng Ưng Chân
thì dùng ai ? ..."

Các quan Phụ chính Trần Tiễn
Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết dâng sớ lên vua Tự
Ðức xin bỏ mấy đoạn có liên quang đến tính nết xấu của tự
quân và xin bỏ câu “không chắc đảm đương nổi việc lớn”
nhưng vua Tự Ðức từ chối. Nhà vua bảo:

-Phải giữ lại câu đó để nhắc
người kế vị phải tự răn mình, tu tỉnh.

Ngày 17-7-1883 Dương lịch, vua Tự
Ðức băng hà tại điện Càn Thành. Theo di chiếu Hoàng tử Ưng Chân
vào chịu tang và coi như là vua kế vị, niên hiệu là Dục Ðức.

Ba ngày sau (20-7-1883) là lễ đăng
quang của vua Dục Ðức tại điện Thái Hoà. Quan Phụ chính Trần
Tiễn Thành đứng ra đọc Di chiếu, tới đoạn nói về tật xấu
của vua, ông hạ giọng đọc rất thấp (có sách nói là không đọc)
thì lúc bấy giờ quan Phụ chính Nguyễn Văn Tường nhảy ra nắm
áo ông và nói lớn :

-Tại sao ông không đọc đoạn tiên
đế nói đến những gì Ngài nghĩ về Ưng Chân ?

Xong ông Tường cho người khác ra
đọc lại di chiếu, đọc vừa xong cái đoạn nói về thói hư tật
xấu của vua Dục Ðức thì ông Tôn Thất Thuyết cắt ngang lời người
đọc và nói :

-Ðây là đoạn mà ông Thành đã
không chịu đọc, phải xin ngưng buổi lễ để xin ý kiến của
Thái Hậu và đình thần xem thử phải làm gì !

Sở dĩ hai ông Nguyễn Văn Tường và
Tôn Thất Thuyết dám làm vậy vì trước đó hai ngày họ đã dâng
lên Hoàng Thái Hậu Từ Dũ tờ hạch tội buộc cho vua Dục Ðức
ba tội lớn :


-Muốn sửa di chiếu

-Có đại tang mà mặc áo màu
-Hư hỏng, ăn chơi.
Ðược bà Hoàng Thái Hậu Từ Dũ bật
đèn xanh, hai ông Phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết
liền truất ngôi của vua Dục Ðức và quản thúc ông ngay tại Dục
Ðức đường. Nhà học của ông bỗng trở thành nhà tù giam. Ông
Dục Ðức làm vua chỉ vỏn vẹn có 3 ngày. Sau đó ông bị chuyển
qua giam tại Thái Y Viện và cuối cùng chết vì đói và khát tại
Ngục Thất Thừa Thiên để lại 8 bà vợ, 11 người con trai và 8
người con gái. (Vua Dục Ðức là cha của vua Thành Thái và là ông
nội của Vua Duy Tân).

Quan Ngự Sử Phan Ðình Phùng có
lên tiếng can ngăn liền bị bắt giam rồi bị cách chức đuổi về
quê.


Trở lại đầu
trang



?
Niên hiệu

Hiệp
Hoà
Năm sanh, năm mất

1847-1883
Giai đoạn trị vì

1883
Miếu hiệu

.
Tên Húy

Nguyễn Phúc Thăng,
Nguyễn Phúc Hường Dật


Ông Nguyễn Văn
Tường và Tôn Thất Thuyết tôn

Chữ ký của vodanh1402

Tue Mar 22, 2011 1:25 pm
không có việc gì khó, chỉ tại không biết làm
avatar
vodanh1402
menber

Cấp bậc thành viên
Danh vọng:
116%/1000%

Tài năng:34%/100%

Liên lạc

Thông tin thành viên
» Nam
» Tổng số bài gửi : 116
» Points : 328
» Reputation : 6
» Join date : 11/11/2010
» Age : 34
» Hiện giờ đang:

Bài gửiTiêu đề: Re: Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN


Trở lại đầu
trang



?
Niên hiệu

Kiến
Phúc
Năm sanh, năm mất

1869-1884
Giai đoạn trị vì

1884
Miếu hiệu

Giảng Tông Nghị Hoàng
Ðế
Tên Húy

Nguyễn Phúc Hạo,
Nguyễn Phúc Ưng Ðăng

Ông Dưỡng Thiện, tên là Ưng Ðăng là
con nuôi thứ ba của vua Tự Ðức lên ngôi vua lấy niên hiệu là
Kiến Phúc. Vua chỉ có 15 tuổi, mọi việc đều do ông Tường và
ông Thuyết quyết định cả.

Có nhiều ông quan thấy vậy liền trả
ấn lại cho triều đình, từ quan rồi đi chiêu mộ binh mà đánh
Tây.

Có sách nói rằng Ưng Ðăng được tin
triều đình tới rước mình về làm Vua, Ưng Ðăng sợ quá chui xuống
gầm giường trốn, mọi người phải lôi ra, ông la hét khóc lóc
thảm thiết nhưng vẫn bị đem lên kiệu đưa về cung. Ông viện
đủ mọi cách để từ chối nhưng vẫn bị hai ông Tường và Thuyết
ép phải lên ngôi. Vua Kiến Phúc ở ngôi được có hơn 6 tháng
thì phải bệnh mất ngày 6 tháng 4 năm Giáp Thân (1884). Có sách
nói rằng Vua bị ông Tường thuốc chết vì Vua bắt gặp ông Tường
đang tư tình với bà phi Nguyễn Thị Hương, để bịt miệng Vua, lợi
dụng lúc Vua đang bệnh ông Tường bỏ thuốc độc vào thuốc trị
bệnh của Vua.

Sau khi ký hiệp ước Quí Mùi với nước
ta, quan Toàn quyền Harmand ra Bắc kỳ để sửa sang sự cai trị, lập
ra đội lính tuần cảnh, tục gọi là lính "khố xanh" và
bãi đội lính cờ vàng mà Thiếu tướng Bouet đã mộ được. Quân
Pháp tiến chiếm Sơn Tây, Bắc Ninh, Ðáp cầu, Hưng Hóa, Tuyên
Quang, ...

Vì biết nước Tàu quá đông nên Pháp cũng muốn
làm hoà, chánh phủ Pháp sai Trung tá Fournier lên Thiên Tân để nghị
hoà với Tổng đốc Tàu Lý Hồng Chương. Hai bên ký hoà ước
Fournier năm Giáp Thân (1884) trong đó Tàu chấp nhận là Pháp bảo hộ
nước Việt Nam.

Nước Pháp có sai ông Công sứ Patenôtre
từ Tàu sang Huế để sửa lại tờ hoà ước của ông Harmand đã
ký ngày 23 tháng 7 năm Quí Mùi (1883), rồi đến ngày 13 tháng 5 năm
1884 Dương lịch, ông Patenôtre cùng với ông Nguyễn Văn Tường,
ông Phạm Thận Duật và ông Tôn thất Phan ký tờ hoà ước mới
(hoà ước Patenôtre), trong đó Triều đình Huế chấp nhận sự bảo
hộ của Pháp và chia nước ra làm 2 khu vực là Trung kỳ và Bắc kỳ,
trên giấy tờ thì mổi kỳ có một cách cai trị khác nhau (Trung kỳ

bảo trợ
chứ không phải bảo hộ) nhưng trên thực tế thì từ từ
Pháp bảo hộ tất cả, Triều đình Huế chỉ là hư vị mà thôi.
Pháp bắt Việt Nam phải trả cái ấn của Tàu phong cho vua Việt
Nam nhưng ông Nguyễn Văn Tường thương lượng để đem cái ấn đó
ra mà nấu chảy.


Trở lại đầu
trang




Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN HAMNGHI_small

Niên hiệu

Hàm
Nghi
Năm sanh, năm mất

1871-1943
Giai đoạn trị vì

1884-1885
Miếu hiệu

.
Tên Húy

Nguyễn Phúc Minh, Nguyễn
Phúc Ưng Lịch


Sau khi vua Kiến Phúc mất
rồi, đáng lẽ con nuôi thứ hai của vua Tự Ðức là ông Chánh
Mông lên ngôi mới phải. Nhưng hai ông Tường và ông Thuyết sợ lập
vua lớn tuổi thì các ông ấy mất quyền hành nên chọn ông Ưng Lịch
là em ruột ông Chánh Mông mới 12 tuổi, tôn lên làm vua, đ
ặt
niên hiệu là Hàm Nghi.

Viên Khâm sứ Rheinart thấy hai ông Nguyễn Văn
Tường và Tôn Thất Thuyết cứ tự tiện lập vua không hỏi ý
ông trước đúng như đã giao kết nên gởi quân vào Huế bắt Triều
đình phải xin phép. Ông Thuyết và Tường phải làm tờ xin phép bằng
chữ Nôm nhưng viên Khâm sứ không chịu, bắt làm bằng chữ Nho
(chữ Tàu), hai ông phải viết lại, viên Khâm sứ mới chịu và
sau đó đi cửa chính vào điện làm lễ phong vương cho vua Hàm
Nghi.

Năm sau (1885), Thống Tướng De
Courcy được chánh phủ Pháp cử sang Việt-Nam để phụ lực vào
việc đặt nền bảo hộ ở Việt-Nam. Tướng De Courcy muốn vào yết
kiến vua Hàm Nghi nhưng lại muốn là toàn thể binh lính của ông,
500 người, đi vào cửa chánh là cửa dành riêng cho đại khách.
Triều đình Huế xin để quân lính đi cửa hai bên, chỉ có các bật
tướng lảnh là đi cửa chánh thôi cho đúng với nghi thức triều
đinh, nhưng tướng De Courcy nhất đ
ịnh
không chịu.

Ông Nguyễn Văn
Tường và ông Tôn Thất Thuyết thấy Pháp khinh mạn Vua mình như
thế đều giận lắm bèn nhất định tấn công trại binh của
Pháp ở đồn Mang Cá vào đêm 22 rạng 23 tháng 4 âm lịch, đ
ến
sáng thì quân Pháp phản công, quân ta thua chạy.

Ông Nguyễn Văn
Tường cho người rước Vua Hàm Nghi (lúc nầy mới 13 tuổi) trực
chỉ tới thành Quảng Trị để lánh nạn nhưng nữa đường thì
ông bỏ Vua ra trình diện với quân Pháp. Tướng De Courcy hẹn cho ông hai
tháng phải tìm cách để rước Vua về. Ông Tường viết sớ ra Quảng
Trị xin rước Vua về nhưng ông Thuyết cản thư không cho Vua bi
ết.
Ông Thuyết ở Quảng Bình làm hịch Cần Vương
để kêu gọi dân chúng giúp Vua chống Pháp, dân chúng nổi dậy rất
đông, đâu đâu cũng có kháng chiến nhưng vì rải rác các nơi nên
lực lượng không mạnh (mạnh nhất là phong trào của Ðề Thám).
Có thuyết kể rằng khi ông Tường tới kêu vua bỏ trốn, vua trả
lời rằng "ta có đánh với ai đâu mà phải chạy ?" nhưng
quân hộ vệ đã nhào tới ôm vua bỏ lên kiệu và tuông thành trốn.
Khi ông Thuyết ra hịch Cần Vương, kể tội ác của Pháp thì vua
Hàm Nghi mới trả lời rằng : "Bây giờ Trẫm mới hiểu"
và từ đó đ
ã trở thành
một lảnh tụ kháng chiến dũng cảm.

Hết hạn hai tháng thì cả gia đình
ông Nguyễn Văn Tường bị ông De Courcy đài ra Côn Ðảo rồi sau
đó bị đưa tới đảo Haiti ở Thái Bình Dương. Ðược ít lâu
thì ông Tường mất, xác được đưa v

chôn ở quê nhà.

Trong thời gian nầy, quân Tàu lại sung đột
với quân Pháp ở Bắc kỳ vì Triều đình Trung Hoa không chấp nhận
cái hoà uớc mà tướng Lý Hồng Chương đã ký, viện cớ là Triều
đình Tàu không hay biết gì về vụ đó (có sách nói là Tàu giận
vụ Pháp bắt hủy cái ấn của Tàu ban cho Việt Nam), cuộc chiến
bùng nổ dử dội ở Tuyên Quang, Lạng Sơn, ... Hải quân Pháp bắn
phá Phúc Châu và vây Ðài Loan. Tới năm 1885, chánh phủ Tàu thấy
chiến tranh không lợi nên thuận ký tờ hoà ước Thiên Tân với
Pháp ngày 27 tháng 4 năm Ất Dậu, trong đó Tàu c
hấp
nhận là Việt Nam thuộc Pháp chứ không thuộc Tàu nữa và bắt đầu

vẽ lại một cách chánh thức biên giới Việt-Hoa
. Từ đây trở
đi coi như Pháp đã chiếm hết nư
ớc
ta (xin coi hình ảnh trong trang ""Những tấm hình của ông
Bác sĩ Hocquard").



Trở lại đầu
trang




Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Dongkhanh_small

Niên hiệu

Ðồng
Khánh
Năm sanh, năm mất

1864-1889
Giai đoạn trị vì

1885-1889
Miếu hiệu

Cảnh Tông Thuần Hoàng
Ðế
Tên Húy

Nguyễn Phúc Biện,
Nguyễn Phúc Chánh Mông


Thấy vua Hàm Nghi đã
thoát ly triều đình kéo cờ khởi nghĩa chống Pháp, Thống tướng
De Courcy sai ông De Champeaux lên yết kiến bà Từ Dũ là mẹ đẻ của
Vua Tự Ðức để xin lập ông Chánh Mông lên làm Vua. Ngày 6 tháng
8 âm lịch năm Ất Dậu (1885), con nuôi thứ hai của Vua Tự Ðức,
tên là Chánh Mông phải thân hành sang bên Khâm sứ Pháp làm lễ thụ
phong, đư
ợc tôn làm Vua,
lấy niên hiệu là Ðồng Khánh.

Sách Trần Trọng Kim viết "Vua Ðồng Khánh
tính tình hiền lành, hay trang sức và cũng muốn duy tân, ở rất
được
lòng ngư
ời Pháp",
nói một cách khác thì Vua Ðồng Khánh không chống Pháp.

Lúc đó Vua Hàm Nghi vẩn còn ở mạn
Quảng Bình, Pháp dồn quân đánh mạnh về vùng nầy, ông Tôn
Thất Thuyết thấy thế yếu, không chống nổi quân Pháp nên
bỏ vua Hàm Nghi ở lại đồn Vé thuộc huyện Tuyên Hóa rồi
nói rằng sang Tàu xin cầu cứu. Ông Tôn Thất Thuyết ở lại
bên Tàu và chết già ở tỉnh Quảng Ðông, có sách nói rằng
vì nước Tàu mới ký hiệp ước làm hoà với Pháp nên không
muốn giúp Việt Nam (sách Trần Trọng
Kim thì nói ông Thuyết lên Lai Châu nương tựa vào họ Ðiêu, đến
lúc nghe tiếng Pháp lên đánh liền bỏ họ Liêu mà trốn sang
Tàu).

Vua Ðồng Khánh đích
thân ra tận Quảng Bình để dụ Vua Hàm Nghi và các quan tùy tùng về
hàng, hứa là sẽ cho cai trị 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh
nhưng không thành công.

Ðến tháng giêng năm Mậu Tý
(1888), Vua Hàm Nghi bị tên hầu cận Trương Quang Ngọc tham tiền
nên cùng một số người tới tấn công trại Vua ban đêm
trong lúc ngủ, giết quân tùy tùng trong đó có Tôn Thất Thiệp
(con của Tôn Thất Thuyết), rồi đem Vua về nộp cho Pháp để
lấy thưởng. Lúc nầy vua đã 18 tuổi, từ lúc bị bắt vua
Hàm Nghi không nói năng gì cả chỉ nhất thiết chối rằng
mình không phải là vua (có sách nói là quân Pháp rất bối rối
vì không biết có phải là vua Hàm nghi không, các quan lại
trong vùng có đến bái mạng nhưng vua coi như không biết, nhưng
khi thầy học củ của vua là Nguyễn Thuận tới thăm thì vua
Hàm Nghi vái chào, từ đó viên quan Pháp Dabat mới chắc là
vua Hàm Nghi). Pháp đày Vua Hàm Nghi sang sứ Algérie, ở đó Vua
lập gia đình với một người Pháp, có 3 con, 2 gái 1 trai, và
mất năm 1944. Hài cốt sau được chuyển về Pháp.

(sau nầy tên Trương
Quang Ngọc bị ông Phan Ðình Phùng -đảng Văn Thân trong phong trào
Cần Vương- sai quân vây bắt rồi đem ra chém đầu để
trị tội bán Vua)



Ngày 27 tháng chạp năm
Mậu Tý (28-1-1889) vua Ðồng Khánh thọ bệnh mà mất, ở ngôi được
3 năm, th
ọ 26 tuổi.


Trở lại đầu
trang




Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Thanh-Thai_small

Niên hiệu

Thành
Thái
Năm sanh, năm mất

1879-1954
Giai đoạn trị vì

1889-1907
Miếu hiệu

Hoài Trạch Công Hoàng
Ðế
Tên Húy

Nguyễn Phúc Chiêu,
Nguyễn Phúc Bửu Lân


Con vua Ðồng Khánh mới 3 tuổi nên không nối
ngôi
được. Triều đình
Huế và Khâm sứ Rheinart đã đồng ý đưa Bửu Lân là con của vua
Dục Ðức lên ngôi lấy hiệu là Thành Thái ngày 2-2-1889 (lúc đó
mới vừa 10 tuổi đang bị giam trong ngục với mẹ -sách TTK). Sách
nói vua Thành Thái là người cầu tiến, yêu nước và chống Pháp.
Nhà vua muốn áp dụng các công cuộc cải cách quốc gia (chính nhà
Vua đã hớt tóc ngắn, biết lái xuồng máy và xe hơi). Nhưng trước
các ý tưởng cấp tiến của nhà Vua, người Pháp lo ngại tìm
cách ngăn trở. Ðể che mắt, Vua thành Thái giả hành động như một
kẻ điên rồ. Năm 1907, Pháp biết Vua tìm cách chống Pháp nên vu
khống là Vua bị điên rồi truất phế Vua Thành Thái đem giữ tại
Vũng Tàu và đến năm 1919 thì đem sang an trí tại đảo La Réunion
bên Phi Châu (đi c
ùng một
lúc với vua Duy Tân sau nầy).

Bị giam cầm nơi
quê người mãi đến tháng 5 năm 1947 (sau khi vua Duy Tân mất) cựu
hoàng Thành Thái mới được cho về Việt Nam và quản thúc tại
Sàigon cho đ
ến 24-3-1954 là
ngày vua mất, thọ 76 tuổi.



Trở lại đầu
trang




Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Duy-Tan_small

Niên hiệu

Duy Tân
Năm sanh, năm mất

1900-1945
Giai đoạn trị vì

1907-1916
Miếu hiệu

.
Tên Húy

Nguyễn Phúc Hoảng,
Nguyễn Phúc Vĩnh San


Vua Duy Tân sinh ngày
19-9-1900, con trai thứ 5 của vua Thành Thái và bà Nguyễn Thị Ðịnh.
Vua Thành Thái rất đông con, đáng lẻ phải chọn người con trưởng
kế vị, nhưng Pháp sợ Vua trưởng thành khó sai khiến nên phải
tìm chọn một ngư
ời càng
nhỏ tuổi càng hay.

Hôm Khâm sứ Lévecque cầm danh sách các Hoàng tử
con Vua Thành Thái vào Hoàng cung chọn vua, trong lúc
điểm
danh thì thiếu mất « mệ Vĩnh San ». Triều đình hốt hoảng chạy
đi kiếm thì thấy Vĩnh San đang chui dưới gầm giường bắt dế.
Vĩnh San bị lôi ra, mặt mày lem luốt, quần áo ướt nhẹp vì mồ
hôi. Không kịp đưa về nhà tắm rửa, bọn thị vệ đưa ngay
Vĩnh San ra tr
ình diện quan
Pháp.

Mới trông thấy Vĩnh San, các quan Pháp vừa ý
ngay vì theo họ
đứa bé mặt
mày dơ tèm lem có vẻ nhút nhác và đần độn, chắc dể sai khiến
sau nầy. Thế là Pháp chọn Vĩnh San làm Vua, mới 7 tuổi đầu. Triều
đình thấy Vua nhỏ bèn xin tăng thêm một tuổi thành tám. Nghĩ tình
Vua Thành Thái suốt đời ước nguyện đổi mới mà không làm được,
nên những người phò tá còn chút quyền hành đã lấy niên hiệu
cho ngư
ời nối nghiệp là
Duy Tân.

Ngay sau lễ Tôn Vương
một ngày (5-9-1907), vua Duy Tân đã tỏ ra khác hẳn hôm qua, Vua
không hề có một cử chỉ nhúc nhát sợ Tây, ông tiếp quan toàn
quyền Ðông Dương thẳng bằng tiếng Pháp. Một nhà báo Pháp đã
thuật lại là « ...Một ngày lên ngai vàng đã thay đ
ổi
hoàn toàn bộ mặt của cậu bé lên tám ».

Ðể kiểm soát vua, Pháp đã
bày ra những việc sau:

-Lập một phụ chính gồm sáu ông đại
thần là Tôn Thất Hân, Nguyễn Hữu Bài, Huỳnh Côn, Miên Lịch,
Lê Trinh và Cao Xuân Dục để cai trị nước Nam dưới sự đi
ều
khiển của Khâm sứ Pháp.

ưa
ông Ebérhard, một tiến sĩ sinh học qua dạy cho Vua Duy Tân học
khoa học (có sách nói mục đích là để theo dõi những hành đ
ộng
của Vua Duy Tân).

Khoãng năm
1912, ông Mahé lên làm Khâm sứ Pháp ở Huế. Mới lên khâm sứ ít
lâu ông ta đã mở một chiến dịch tìm vàng ráo riết. Mahé lấy
tượng vàng đúc từ thời Nguyễn Phúc Chu (đầu thế kỷ thứ 18)
trên tháp Phước Duyên chùa Thiên Mụ, đào mả lăng Vua Tự Ðức
để tìm vàng và đào sới lung tung trong Ðại Nội để tìm vàng.
Vua Duy Tân phản đối quyết liệt những hành động thô bạo đó,
nhưng Mahé vẫn làm ng
ơ.

Vua Duy Tân ngày đêm ăn ngủ không
yên, ông ra lệnh đóng cửa Cung và không tiếp ai hết. Toà Khâm Sứ
Pháp làm áp lực với nhà Vua thì nhà Vua đe doạ là sẽ tuyệt
giao với các nhà đương cục ở Huế lúc bấy giờ. Cuối cùng
Tây phải triệu toàn quyền Sarraut ở Hà Nội vào giải quyết. Gặp
toàn quyền Vua Duy Tân đã vạch tội của Khâm Sứ Pháp ở Huế.
Ðể xoa dịu, toàn quyền Sarraut đã khiển trách Mahé về hành động
bất nhân đó. Vua Duy Tân m
ới
hạ lệnh cho mở cửa Hoàng Thành.

Năm Vua
Duy Tân 13 tuổi, ngày lục lọi giỡ ra xem những hiệp ước mà hai
nước Việt-Pháp đã ký với nhau rồi một hôm giữa triều đình,
nhà Vua tỏ ý muốn cử ông Nguyễn Hữu Bài là người giỏi tiếng
Pháp sang Pháp để yêu cầu duyệt lại hiệp ước ký năm 1884
(Patenôtre) vì ông cảm thấy việc thi hành của hiệp ước ấy không
đúng với những điều kiện mà hai bên đã ký kết với nhau
(Trung kỳ

bảo trợ
chứ không phải bảo hộ)
, nhưng
cả triều đình không ai dám nhận chuyến đi đó.

Năm 15 tuổi, Vua Duy Tân đã triệu
tập cả sáu ông đại thần trong Phụ Chính, bắt buộc các vị phải
ký vào biên bản để đích thân Vua sẽ cầm qua trình với toà
Khâm Sứ nhưng các ông đại thần sợ Tây giận sẽ kiếm chuyện
nên từ chối không ký và phải xin yết kiến bà Thái Hậu để nhờ
bà can gián nhà Vua. Từ đó không những nhà Vua có ác cảm với thực
dân Pháp mà còn ác cảm với Triều đ
ình.
Biết được
vua Duy Tân là người yêu nước chống Pháp nên Việt Nam Quang Phục
(do ông Trần Cao
Vân cầm đầu) hội quyết định móc nối. Mùa hè năm 1915 vua ra cửa Tùng nghĩ mát,
người tài xế tên Phan Hữu Khánh là người trong hội có đưa cho
Vua một bức thư của 2 lảnh tụ là Trần Cao Vân và Thái Phiên.
Vua đọc thư cảm động lắm và đòi gặp 2 người. Thế là ông
Trần Cao Vân và ông Thái Phiên cùng vua Duy Tân mưu đồ khởi
nghĩa đánh Pháp, nhưng không ngờ ngày vua xuất thành (3-5-1916) để
làm cách mạng thì có người phản bội đi báo Tây, 2 ngày sau vua
Duy Tân bị bắt, Pháp bắt Triều đình ta phải xử, Thượng thư bộ
Học Hồ Ðắc Trung được ủy nhiệm thảo bản án. Ông Trần Cao
Vân tuy bị giam trong ngục nhưng nhờ được người đưa được một
mảnh giấy cho ông Hồ Ðắc Trung xin được lảnh hết tội và xin
tha cho Vua. Ông Hồ Ðắc Trung làm án đổ hết tội cho 4 ông Thái
Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Ðề và Nguyễn Văn Siêu. Bốn ông
đều bị chém đầu còn vua Duy Tân thì bị đày đi đ
ảo
Réunion cùng với vua Thành Thái (1919).


Vua Duy Tân mặc dù bị đày nhưng
vẫn thiết tha với quê hương, ông vẩn tìm cách trở lại với
đất nước. Ðệ nhị thế chiến xảy ra, ông nghĩ đó là cơ
hội để ông có thể thoát ra khỏi nơi giam cầm bằng cách
xin đi lính cho Tây. Và đúng như tiên liệu, sau đó vua Duy
Tân đã có dịp sang Pháp gặp Tướng De Gaulle (1945) và được
ông nầy hứa là sang năm sẽ đích thân đưa Vua về Việt Nam
để trở lên ngôi mặc cho bộ Thuộc Ðịa phản đối. Vua
Duy Tân mừng lắm có tuyên bố với nhiều người cuộc hồi
hương sắp tới nầy nhưng rất tiếc chiếc phi cơ chở ông
trên đường từ Pháp về đảo để thăm vua cha và gia đình
đã bị rớt, không ai sống sót (tháng 12 năm 1945). Ðây vẫn
là một nghi vấn cho lịch sữ.


Trở lại đầu
trang




Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Roi-Khai-Dinh_small1

Niên hiệu

Khải
Ðịnh
Năm sanh, năm mất

1885-1933
Giai đoạn trị vì

1916-1925
Miếu hiệu

Hoằng Tông Tuyên Hoàng
Ðế
Tên Húy

Nguyễn Phúc Tuấn,
Nguyễn Phúc Bửu Ðảo


Truất phế vua Duy Tân
xong, triều đình Huế được sự chấp thuận của toà Khâm sứ
đưa Ho
àng tử cả Nguyễn
Phúc Bửu Ðảo con của vua Ðồng Khánh lên ngôi, lấy niên hiệu
là Khải Ðịnh.

Theo các sách mà tôi có thì vua Khải Ðịnh chỉ
là vị vua
ăn chơi, chỉ
lo cho mình chứ không lo cho nước, lại rất chuộng trang điểm và
tự mình sáng chế ra những bộ y phục mới cho vua và cho cả quan
hộ vệ (xin xem hình vua Khải Ðịnh thăm Paris). Năm 1922 khi Vua đi
dự cuộc "thi đấu xảo thuộc địa" ở Marseille (Pháp)
ông Phan Chu Trinh có gởi một bức thư trách Vua 7 tội trong đó có
tội "ăn mặc lố lăng". Dưới thời của Ngài, trong triều
đình không có chuyện xích mích với Pháp, theo sách thì gần như
Ngài để cho Toà Khâm Sứ định đo
ạt
mọi chuyện.

Sách kể rằng vua Khải Ðịnh chỉ thích đàn
ông, khi coi hát bội, vua đều bắt các "kép" giả "đào"
để đóng ; nhưng sách lại nói rằng ông lại có một ngư
ời
con trai (Hoàng tử Vĩnh Thụy) với bà phi Từ Cung !

Nếu xem cái site của vua Duy Tân
(http://vinhsan.free.fr) làm bởi các con cháu của Ngài thì chúng ta lại
có thêm
được một
"tiếng chuông" khác : Trong đó vua Khải Ðịnh được xem
như một người vua muốn cải tiến đất nước, Ngài bỏ chuyện
thi cử vì cho rằng cái học đó đã lổi thời, không còn thích hợp
với cái xã hội hiện tại và khi Ngài qua Pháp (năm 1922) là để
tìm cách giải thích cho Pháp hiểu sự ham muốn (đòi hỏi) tự trị
của dân tộc Việt. Ở đây chúng ta cũng đư
ợc
biết thêm là Hoàng tử Vĩnh Thụy chỉ là con nuôi của vua Khải
Ðịnh !

Vua Khải Ðịnh có xây cất nhiều công trình
mà cái nổi tiếng nhất là cái l
ăng
của Ngài, nếu nhìn vào thì người ta sẽ nhận diện ra ngay là một
công trình Á Châu nhưng nó hoàn toàn không giống những kiến trúc
đương thời, từ vật liệu xây cất tới cách trang trí nội thất.
Có người khen kẻ chê nhưng nhất định đây là lần đầu tiên
trong lịch sử mà dân Việt Nam tìm cách tự tạo riêng cho mình một
đư
ờng lối kiến trúc.
Vua Khải Ðịnh mất ngày 25-9 năm
Ất-Sửu (6-11-1925).


Trở lại đầu
trang




Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN BAODAI_small

Niên hiệu

Bảo
Ðại
Năm sanh, năm mất

1913-1997
Giai đoạn trị vì

1925- 1945
Miếu hiệu

.
Tên Húy

Nguyễn Phúc Thiển,
Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy


Hoàng tử Vĩnh Thụy sanh
ngày 23 tháng 9 năm Quí Sửu (23-10-1913), khi vua Khải Ðịnh mất
thì Hoàng tử Vĩnh Thụy còn đang học ở bên Pháp (từ năm 1922).
Toàn quyền Pháp Monguillot ra lệnh thành lập hội đồng phụ chính
mới do ông Tôn Thất Hân đứng đầu và đại diện cho chánh phủ
Việt Nam để ký với Pháp một hiệp định mới. Theo hiệp định
nầy thì Khâm sứ sẽ là chủ tịch hội đồng nội các của Việt
Nam, và kể từ dây Triều đình Huế sẽ không còn ngân sách riêng
như trư
ớc nữa.
Ngày 14-11 năm
Ất-Sửu, Hoàng Thái tử Vĩnh Thụy được tôn lên làm vua lấy
niên hiệu là Bảo Ðại. Lên ngôi vua xong, Bảo Ðại giao công việc
triều chánh cho hội đồng phụ chính rồi trở sang Pháp học cho
đến năm 1932 mới trở về nước. Theo sách thì vua Bảo Ðại
tính nắm lại quyền hành để cải tổ nước nhà nhưng gặp phải
sự phản đối của các quan bảo thủ và bị chánh phủ Pháp cản
trở, ông thất vọng vì thấy mình làm vua cũng như không nên đâm
ra chán nản, lao mình vào các cuộc đi săn, chơi th

thao, ...

Tháng 3-1945, Nhật đánh
úp Pháp và tuyên bố là muốn giúp Việt Nam dành độc lập. Ngày
11-3-1945 viện Cơ Mật của Triều đình Huế tuyên bố Việt Nam
dành lại chủ quyền, bải bỏ hiệp ước bảo hộ 1884. Ngày
17-3-1945 vua Bảo Ðại giải tán hội đồng Cơ Mật (lập từ thời
Minh Mạng) và giao cho ông Trần Trọng Kim thành lập nội các mới,
theo nguyên tắc "Dân vi quý", trong thành phần Nội Các phần
lớn là các nhà Tây học (như Hoàng Xuân Hãn,...), nhưng từ khi thành
lập Nội Các, ông Trần Trọng Kim chẳng làm gì được cả vì quyền
hành đ
ều nằm trong tay Nhật
hết !

Ngày 19-8-1945, Việt Minh chiếm chính quyền ở
ngoài Bắc, biểu tình tr
ước
Nhà Hát Lớn Hà Nội để nghe tuyên bố của Mặt Trận Cứu Quốc
Việt Minh. Cũng cùng ngày nầy trong Nam (theo Philippe Devilliers) đài
phát thanh Việt Nam có truyền thanh một chiếu của vua Bảo Ðại gửi
quốc dân, yêu cầu dân hy sinh để giữ độc lập và Vua sẵn
sàng "làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nư
ớc
nô lệ.".

Ngày 24-8-1945, vua Bảo Ðại nhận được
một bức điện văn của Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng từ Bắc đánh
vào nội dung như sau : "Một chính phủ nhân dân cách mạng lâm
thời đã thành lập, chủ tịch là cụ Hồ Chí Minh. Yêu cầu đức
vua thoái vị ngay để củng cố và thống nhất nền độc lập nước
nhà.". Sách chép là lúc đó ở Huế không ai biết Hồ Chí Minh
là ai, sau khi điều tra biết được Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc
thì vua Bảo Ðại mới thốt ra câu tiếng Pháp : "ça vaut bien
le coup alors !" (như thế thì cũng đáng -thoái v
ị-
!)

Ngày 25/8/1945, vua Bảo Ðại cho công bố chiếu
thoái vị. Ngày 26/8/1945 nhà vua làm lễ ở Thế Miếu và ngày
30/8/1945
đại điện chính
phủ cách mạng lâm thời gồm các ông Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương
B
ằng và Cù Huy Cận nhận
ấn kiếm của nhà vua tại cửa Ngọ Môn (Huế). Vua Bảo Ðại được
phong chức Cố Vấn Tối Cao cho chính quyền mới.

Triều đại
nhà Nguyễn chấm dứt sau 143 năm tr

vì (1802-1945).

Sau đệ
nhị thế chiến, Pháp trở lại Ðông Dương và tìm cách chiếm lại
Việt Nam. Năm 1946, cựu hoàng Bảo Ðại lưu vong bên Hồng Kông. Năm
1948, Pháp thấy không xong nên tìm cách đưa cựu hoàng Bảo Ðại về
lập chánh phủ để có "chánh nghĩa", cựu hoàng Bảo Ðại
đòi Pháp phải xác nhập 3 kỳ (thống nhất) và cho Việt Nam độc
lập, Pháp tỏ vẻ chịu nhượng bộ và ký với cựu hoàng Bảo Ðại
hiệp ước Hạ-Long ngày 5-6-1948 (với ông Cao ủy Emile Bollaert), bầu
cựu hoàng làm Quốc Trưởng nhưng trong hiệp định lại đòi điều
khiển quân đội, tài chánh và ngoại giao! cựu hoàng Bảo Ðại
không hài lòng nên giận bỏ sang Pháp (nhưng vẫn đi
ều
hành từ xa).

Tới năm
1954, sau hội nghị Genève chia đôi nước Việt Nam từ vĩ tuyến thứ
17, cựu hoàng Bảo Ðại mời ông Ngô Ðình Diệm làm Thủ Tướng
ở Sàigòn, cuối năm 1955 các viên chức Hoa Kỳ ở Sàigòn giúp
ông Ngô Ðình Diệm tổ chức một cuộc "trưng cầu dân
ý" để lật đ
ổ cựu
hoàng Bảo Ðại và tôn ông Diệm lên làm Tổng Thống.

Cựu hoàng Bảo Ðại mất tại Paris tháng 7 năm
1997.
Trích dẫn :

Chữ ký của vodanh1402

«Ðề Tài Trước|Ðề Tài Kế»


Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Collap11Trả lời nhanh
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Có Bài Mới Có bài mới đăngChưa Có Bài Mới Chưa có bài mớiChuyên Mục Ðang Bị Khóa Ðã bị đóng lại
Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Cookies | Thảo luận mới nhất