Kiến trúc cung đình Huế được định hình và mang phong cách bản sắc Huế từ
khi Huế là Kinh đô của VN thời triều Nguyễn. Là một trung tâm chính trị
- văn hóa - kinh tế... của cả nước suốt thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ
XX, Kinh đô Huế có những công trình kiến trúc mỹ thuật kỳ vĩ nhất đất
nước, nay còn tồn tại với mật độ dồi dào.
Ngọ môn và Lầu Ngũ phụng
Truyền
thống dân tộc xuất phát từ dịch lý và thuật phong thủy của Trung Hoa cổ
đại, nguyên lý kiến trúc truyền thống VN và kiến trúc Kinh đô Huế tất
yếu phải hài hoà với thiên nhiên và con người. Ngoài thuyết Ngũ hành kết
hợp thuyết Âm dương, Tam tài, quy luật phát triển của vạn vật về bố cục
của đồ án quy hoạch kinh đô Huế dựa trên cơ sở nghiên cứu định hình
theo thuật Phong thủy và Dịch lý của các nhà Phong thủy Phương Đông cho
những công trình kiến trúc kể cả âm phần dương cơ.
Khi xây dựng
hệ thống thành quách và cung điện, các nhà kiến trúc dưới sự chỉ đạo của
nhà vua đã bố trí trục chính của công trình theo vị thế toa càn hướng
tốn, tức là chạy hướng Tây Bắc- Đông Nam. Yếu tố Ngũ hành quan trọng
trong bố cục mặt bằng của kiến trúc cung thành tương ứng với ngũ phương.
Ngôn ngữ của kiến trúc là định vị các công trình trong không gian sao
cho hài hòa với thiên nhiên. Như Điện Thái Hòa là trung tâm của Kinh
thành, chung quanh là Thanh Long (Đông), Bạch Hổ (Tây), Chu Tước (Nam),
Huyền Vũ (Bắc).
Hướng Kinh thành phải quay mặt về phía Nam vì
Kinh dịch viết "Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ" nghĩa là bậc đế
vương xoay mặt về hướng Nam để nghe (cai trị) thiên hạ.
Hữu Vu trong Hoàng thành
Kiến
trúc cung đình Huế đã tiếp thu và kế thừa kiến trúc truyền thống Lý,
Trần, Lê là tất yếu để chống sự đồng hoá và cũng chống sự lạc hậu nên
đồng thời tiếp thu tinh hoa của mỹ thuật Trung Hoa nhưng đã được VN hóa
một cách có ý thức dân tộc của các nghệ nhân từ các miền Nam Bắc quy tụ
về xây dựng Kinh đô, kể cả những người thợ gốc Minh Hương Trung Quốc và
Chămpạ Đặc biệt đã được hiện đại hóa kỹ thuật của những công trình sư
người Pháp phục vụ dưới thời Gia Long, theo phương châm cơ bản tiếp thu
có chọn lọc những kiến trúc thích nghi với tâm hồn người Việt và Việt
hóa dần để phù hợp với tâm lý bản địa đem lại những đặc trưng bản sắc
kiến trúc Huế.
Kiến trúc cung đình Huế
Về kiến trúc quy
hoạch đồ án xây dựng kinh đô Huế, vua Gia Long là một nhà chính trị,
quân sự, đồng thời là một người có sáng tạo trong quy hoạch đô thị. Đồ
án được thai nghén trong tâm thức nhà vua từ trước khi đăng quang. Việc
thi công được thực hiện kể từ năm 1802. Kinh đô Huế xây dựng bởi ba lớp
thành bao bọc là Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành.
Kinh thành hay Phòng thành
Năm
1802 vua Gia Long khởi công xây dựng Hoàng thành và Tử Cấm thành. Năm
1805 mới bắt đầu xây dựng Kinh thành, quy mô diện tích rất lớn 520ha,
chu vi 10km. Đặc biệt vận dụng kiểu kiến trúc phòng ngự Vauban của Pháp.
Phòng thành Huế tạo những đường dích dắc, gồm các hệ thống: luỹ, pháo
đài, giác bảo, đoạn thành nối hai pháo đài, tường bắn, phản pháo, phòng
lô, hào, thành giai... Đây là một loại thành luỹ đã được áp dụng ở nhiều
địa phương nước Pháp và các nước lân cận. Khi xây dựng kinh thành, 8
làng phải dời đi và hai đoạn nhánh Sông Hương là Bạch Yến và Kim Long đã
bị lấp. Vòng thành có 10 cửa lớn đường bộ, hai đường thuỷ và kỳ đài;
thành cao 6,6m, rộng 21m xây gạch bên ngoài kiên cố có dãy hào sâu gọi
là Hộ Thành hà. Trong Kinh thành còn có những công trình kiến trúc: lục
bộ, nha viện, Quốc Tử giám, Quốc Sử quán, quần thể kiến trúc hồ Tịnh
Tâm, Khâm Thiên giám, Trần Bình đài, Tàng Thơ lâu, Kỳ đài... Thật sự
kiểu thức này cũng đã được áp dụng khi xây dựng thành Gia Định (1791) do
ông Olivier de Puymanuel giỏi về kiến trúc và kỹ sư Leburn đã thiết kế
giúp chúa Nguyễn Ánh. Kinh thành Huế xây thời Gia Long và vua kế vị Minh
Mạng đã xây tiếp các thành: Hà Nội, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Sơn
Tây, Hưng Yên, Hưng Hoá, Nam Định, Thanh Hoá, Vinh, Đồng Hới, Quảng Trị,
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Yên Hòa, Vĩnh
Long... cũng đều theo phong cách Vauban, một phong cách xuất hiện sớm ở
châu Á.
Hoàng thành
Toàn cảnh Hoàng thành Thành gần hình
vuông, mỗi cạnh 606m. Trong đồ án hơi lệch về phía Nam của Kinh thành,
có một cửa chính Ngọ Môn (Nam), Hòa Bình (Bắc), Hiển Nhơn (Đông) và
Chương Đức (Tây). Theo trục dũng đạo, từ cửa Ngọ Môn vào điện Thái Hoà
là nơi thiết đại triều và tiếp sứ thần, có nhiều cầu, hồ liên tục và
những phương môn bằng đồng nguy nga tráng lệ. Khu vực thờ cúng tổ tiên
có: Triệu miếu, Thái miếu, Hưng miếu, Thế miếu, điện Phụng Tiên, Cửu
đỉnh, các cung Diên Thọ (các bà mẹ vua ở), cung Trường Sanh (các bà nội
vua ở), các kho tàng, vườn Thượng Uyển ... Ngọ Môn và Hiển Lâm các là
hai công trình kiến trúc đồ sộ, độc đáo tuyệt mỹ của kiến trúc truyền
thống Huế.
Tử Cấm thành
Thái Bình Lâu trong Tử Cấm thành
Toàn bộ cung điện, lầu gác, đình tạ xây dựng để phục vụ sinh hoạt của
nhà vua và gia tộc. Đại cung môn gồm có: điện Cần Chánh, Càn Thành, Kiến
Trung, Tam Cung lục viện, Tả vu, Hữu vu, điện Văn Minh, Võ Hiển, Thái
Bình lâu, Duyệt Thị đường, Thái Y viện, v.v... Ngoài Kinh thành còn có:
Phu Văn lâu, đàn Nam Giao, Văn Thánh, chùa Linh Mụ, điện Hòn Chén, Hổ
Quyền... Đây là những di tích lịch sử và cảnh quan đẹp của đất Thần
kinh.
Lăng tẩm
Lăng Tự Đức
Dưới thời Nguyễn, lăng
tẩm của các vị hoàng đế có kiến trúc rất quy mô, hài hòa giữa thiên
nhiên với con người. Chúng như những khu công viên rộng lớn ở thượng
nguồn sông Hương và một phần nào phản ánh tư tưởng, cá tính của các vị
vuạ Bản thân các vua đã bỏ hết tâm tư vào việc xây dựng lăng tẩm cho
mình từ lúc còn tại vị. Thành phần kiến trúc gồm có: tượng chầu bái
đình, nhà bia, trụ biểu, tẩm điện. Thành phần tự do gồm có: hồ cầu, la
thành, nghi môn.... Sự thêm bớt quy hoạch cụ thể, tuân thủ nghiêm túc
những nguyên lý phong thủy của các thầy địa được trọng dụng đưa ra để
chọn địa thế như: Vạn niên cát địa (đất tốt ngàn năm), Tiền án hậu chẩm
(núi án phía trước, núi gối phía sau), Tả long hữu hổ (núi chầu phải,
trái như rồng chầu hổ phục), Huyền thủy chi lưu (nước chãy lặng lẽ vòng
quanh hình chữ chi), Sơn triều thủy tụ (núi hướng về, nước chãy đến).
Những lăng tiêu biểu như lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức...
có vẻ đẹp hùng vĩ, nên thơ và mang phong cách truyền thống. Tuy nhiên
cũng có lăng ảnh hưởng kiến trúc Baroque Tây phương như Lăng Khải Định.
Giá trị thẩm mỹ của những công trình kiến trúc tiêu biểu
Ngọ Môn
Là
cổng chính của Đại nội, xây dựng 1833, thời vua Minh Mạng. Ngọ Môn được
xây dựng trên mặt bằng hình chữ U và hệ thống Ngũ Phụng lâu chia thành 9
bộ mái lớn nhỏ, cao thấp, nhấp nhô trông rất đẹp mắt để tránh sự nặng
nề của công trình kiến trúc hình khối tương đối đồ sộ. Hệ thống nền đài
xây dựng bằng vật liệu cứng (đá thanh, gạch, đồng) nhưng nhờ tạo dáng
mềm mại, bố trí hài hoà, trau chuốt khéo léo nên trông rất nhẹ nhàng.
(hình: Toàn cảnh Ngọ Môn) Các lối đi trổ xuyên thâu nền đài thành như
đường hầm dài. Tổng thể Ngọ Môn đồ sộ nguy nga, hùng tráng, nhìn xa như
một lâu đài tráng lệ phản ánh trình độ cao của các công trình sư, kiến
trúc sư thời Minh Mạng. Ngọ Môn là một công trình kiến trúc tiêu biểu,
xuất sắc của triều Nguyễn nói riêng và kiến trúc cổ VN nói chung.
Điện Thái Hòa
Trong
Đại nội, cung điện quan trọng nhất là điện Thái Hoà. Điện nằm ở điểm
trung tâm trong quy hoạch tổng thể mặt bằng hệ thống các công trình kiến
trúc cung đình kinh đô Huế. Nơi đây đặt ngai vàng, biểu tượng thiêng
liêng của chế độ quân chủ. Về phong cách kiểu thức, kiến trúc ở Kinh đô
Huế khác hẳn những triều đại trước thuộc văn hoá Thăng Long. Điện Thái
Hoà cũng như nhiều điện khác trong Đại nội được thiết kế theo kiểu thức
nhà kép, gọi là trùng thiềm điệp ốc (mái chồng lên nhau, nhà nối liền
nhà), nhà trước và nhà sau của điện nằm trên một mặt nền và nối liền
nhau bằng một hệ thống vì kèo thứ ba, một hệ thống trần nằm cong nên
thường gọi là trần vỏ cua hay thừa lưu. Điện Thái Hoà là một ngôi điện
lớn, uy nghi tráng lệ nhất trong quần thể kiến trúc cung đình xưa còn
tồn tại ở Huế, nó mang chủ đề tư tưởng của kiến trúc Kinh đô Huế và chế
độ quân chủ nhà Nguyễn. Đây là một công trình kiến trúc có thể xem là
chuẩn mực về cấu trúc phong cách như những cung điện miếu thờ của kiến
trúc cung điện triều Nguyễn theo kiểu trùng thiềm điệp ốc.
Điện Long An (nay là Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế)
Trên
phương diện kiến trúc cổ, đây là một công trình có giá trị thẩm mỹ cao
của nhà Nguyễn, kiến trúc điện Long An là một tòa nhà kép, gọi là trùng
thiềm điệp ốc, hệ thống vì kèo trần vỏ cua được chạm trổ rất tinh tế.
Không gian rộng, có chiều sâu, tạo sự thâm nghiêm chung quanh toà nhà;
tòa nhà tuyệt đối không xây vách mà chỉ dựng toàn cửa bằng khoa lồng
kính để tiếp nhận ánh sáng, mái bao che chung quanh 3 tầng, ở giữa là
hàng cổ diềm được trang trí hàng cột hiên đứng xuống mặt sàn nhà không
từ trên nền. Điện Long An được trang trí hình ảnh và thơ văn nhiều nhất.
Nội thất có bảy mươi mốt ô hộc trang trí theo lối nhất thi nhất hoạ với
chất liệu óng ả cẩn xà cừ, ngà xương. Đặc biệt trên hệ thống bản đố nhà
trong, hai bên có hai vách gỗ, có 56 chữ Nho được sắp xếp hình Bát Quái
và dùng để hồi văn liên hoàn có thể đọc thành 64 bài thơ thất ngôn và
ngũ ngôn khác nhau do vua Thiệu Trị sáng tác. Điện Long An là một công
trình nguy nga, tráng lệ và thanh nhã bởi những bàn tay khéo léo của các
nghệ nhân được xem là một cung điện đẹp nhất ở Huế và VN. Điện thuần
túy bằng chất gỗ, không vàng son như thường thấy ở các cung điện khác.
Hiển Lâm Các
Là
một công trình kiến trúc độc đáo cao ba tầng bằng gỗ duy nhất, trông
rất kỳ vĩ trang nghiêm, có 12 mái, 4 cột chính chạy suốt chiều cao
khoảng 13m , diện tích mặt bằng rộng 300m2. Trên nền các tầng thu nhỏ
dần, tạo thành cấu trúc khối đơn giản, đẹp và duyên dáng nhưng có vẻ tôn
nghiêm. Chức năng chính được xem như đài tưởng niệm để ghi nhớ công lao
của các vua nhà Nguyễn được thờ ở Thế miếu. Hệ thống kết cấu con sơn là
một kiểu thức của kiến trúc cổ VN nhưng đã có sự phát triển mới. Trang
trí nội thất cũng như ngoại thất rất tinh tế, đẹp hài hòa với không gian
thiên nhiên tươi đẹp, những cây cổ thụ rợp bóng mát quanh năm. Hiển Lâm
các có giá trị về kỹ thuật lẫn thẩm mỹ tạo hình.
Lăng tẩm các vua nhà Nguyễn
Là
những kỳ quan được thiết kế xây dựng rất kỳ công trong những không gian
hoành tráng hùng vĩ, hài hòa với cảnh quan thiên nhiên một cách tuyệt
vời, bố cục tạo hình gợi cảm tiết điệu, có giá trị thẩm mỹ cao. Tuỳ
thuộc tư tưởng cá tính của mỗi vị vua, các lăng phản ánh tâm linh quan
niệm vĩnh cữu và huyền bí phương Đông. Theo quan niệm phương Đông khi
lên ngôi, các vị vua đều nghĩ đến việc xây dựng lăng tẩm, nơi an nghỉ
cuối cùng "tức vị trị quan" đấy là nguyên tắc của các vị đế vương.
Lăng Gia Long
Đồ
án công trình bố cục theo chiều ngang trải rộng mênh mông, không có
đình tạ và thành. Tổng thể điện Minh Thành bao gồm tẩm điện, sân chầu,
tượng đá voi ngựa, quan chầu, bia Thánh Đức thần công. Bao quanh cảnh
núi đồi hùng vĩ giống như một vòng thành thiên nhiên, với núi Thiên Thọ
gồm 42 ngọn đồi. Khu mộ hợp táng vua và hoàng hậu là sự độc đáo của công
trình lăng ở phương Đông. Cảnh quan thiên nhiên hoà quyện với kiến
trúc. Con người làm chủ được thiên nhiên trong sự hài hòa có tính chất
chiều sâu tâm linh nội tại. Một chuyên gia UNESCO đã nhận xét rằng, lăng
Gia Long ở giữa một khu vườn thiên nhiên bao la gợi nên ấn tượng hoành
tráng và thanh thoát.
Lăng Minh Mạng
Lăng Minh Mạng, với
đồ án chữ Minh của mặt bằng hồ cùng những công trình kiến trúc theo trật
tự thẳng trục thần đạo, có tính chất uy nghiêm hùng vĩ, đã phản ảnh tư
tưởng trung ương tập quyền của vị hoàng đế này. Lăng Minh Mạng được coi
là một trong những công trình lăng tẩm đạt đỉnh cao của sự hài hoà đối
xứng và bất đối xứng của trật tự nghiêm ngặt tạo sự hoành tráng uy nghi,
đặc biệt tẩm (khu mộ khối hình tròn thành cao tượng trưng cho mặt trời,
biểu tượng thiên thể).
Lăng Thiệu Trị
Là sự thay đổi
không gian qua biến thể cấu trúc kết hợp giữa đồ án hoành của lăng Gia
Long và trục đứng đạo đến khu mộ của lăng Minh Mạng để tạo ra bố cục mới
đặt cụm kiến trúc sân chầu, nhà bia, bửu thành song song viện chính và
vẫn giữ vẻ uy nghi, quy mô hoà hợp với cảnh quan thiên nhiên.
Lăng Tự Đức
Tuy
có sự kế thừa nhưng đã phá vỡ không gian tạo hình, không giống những
lăng các vị tiên đế. Đồ án uyển chuyển nhịp nhàng, tạo nhịp điệu đầy
chất thơ hoà quyện trong không gian thiên nhiên đầy thông, hồ nước chãy
quanh, đặc biệt điểm tô thêm nhà thuỷ tạ duyên dáng soi bóng trên mặt hồ
sen, một nhà bia với tấm văn bia đồ sộ biểu lộ tâm trạng bi quan của
nhà vuạ Lăng phản ánh tâm hồn phóng khoáng, lãng mạn của một vị vua thi
sĩ đã có nhiều trước tác về thơ văn có giá trị văn học.