Diễn Đàn Bác Sĩ Y Học Dự Phòng
Diễn Đàn Bác Sĩ Y Học Dự Phòng
Diễn Đàn Bác Sĩ Y Học Dự Phòng
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn Đàn Bác Sĩ Y Học Dự Phòng

TƯƠNG LAI LÀ DO CHÚNG TA QUYẾT ĐỊNH
 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
524 Số bài - 36%
429 Số bài - 29%
311 Số bài - 21%
116 Số bài - 8%
30 Số bài - 2%
24 Số bài - 2%
12 Số bài - 1%
11 Số bài - 1%
10 Số bài - 1%
8 Số bài - 1%

Tin Mới Y Học Empty Tin Mới Y Học Empty

Admin nhắn với tất cả: xi lỗi trong thời gian qua do bạn công tác nên admin vắng nhà bây giờ admin đã trở lại sẽ làm cho diễn đàn tươi mới hơn              mr_soc nhắn với ydp10: co ai la dan ydp tp hcm ko.cung lam wen giup do mhau trong hok tap nha                 
Bạn phải đăng nhập để gửi Thông điệp
Tài khoản:Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập:
:: Quên mật khẩu
Bạn phải đăng nhập để gửi Thông điệp
Tài khoản:Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập:
:: Quên mật khẩu
Gửi đến :
Emoticon
Lời nhắn :

|
Bookmarks

Tin Mới Y Học

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down
Fri Oct 15, 2010 8:40 am
không có việc gì khó, chỉ tại không biết làm
Admin
Admin
Admin

Cấp bậc thành viên
Danh vọng:
311%/1000%

Tài năng:%/100%

Liên lạc
http://bsyhdp.co.cc

Thông tin thành viên
» Tổng số bài gửi : 311
» Points : 953
» Reputation : 34
» Join date : 14/10/2010
» Hiện giờ đang:

Bài gửiTiêu đề: Tin Mới Y Học


Thời Sự Y Học Số 33
BS Nguyễn Văn Thịnh 1/ CÁC EM BÉ ĐỌC TRÊN MÔI
Một nghiên cứu của Canada chứng tỏ rằng các trẻ sơ sinh biết phân biệt bằng mắt tiếng mẹ đẻ này với tiếng mẹ đẻ khác.
Bạn kể một câu chuyện cho con bạn mới 4 đến 6 tháng nghe. Nó chỉ thấy môi bạn cử động khi bạn đang nói nhưng không nghe bạn nói những gì: nó có vẻ không chú ý lắm. Nhưng nếu bạn bắt đầu nói tiếng Anh thì nó để ý ngay điều đó! Nhóm nghiên cứu của Whitney Weikum thuộc Đaị Học Colombie-Britanique ở Vancouver (Canada) đã chứng tỏ rằng các em bé từ 4 đến 6 tháng biết phát hiện bằng mắt sự chuyển đổi từ tiếng nói nước này qua tiếng nói nước khác. 36 trẻ em 4,6 hoặc 8 tuổi, thuộc những gia đình nói tiếng Anh hoặc song ngữ Anh-Pháp, đã được cho xem những đoạn phim câm vidéo. Trong đoạn phim đầu tiên, một người biết nói hai thứ tiếng (bilingue) nói bằng tiếng Anh. Trong đoạn phim thứ hai, cũng người này lúc đầu nói tiếng Anh nhưng sau cùng chấm dứt bằng tiếng Pháp. Khi một em bé 4 đến 6 tháng, thuộc gia đình nói tiếng Anh, nhìn Vidéo bằng tiếng Anh thì sự chú ý của nó bị suy giảm nhanh chóng nhưng nếu nó nhìn vidéo trong đó người nói chuyển ngữ thì nó trở nên chú ý hơn. Như vậy các em bé biết phân biệt một tiếng nói nhờ các tín hiệu thị giác, một khả năng cần thiết để thụ đắc ngôn ngữ. Nhưng khả năng này không kéo dài lâu. Chỉ có những trẻ thuộc gia đình nói 2 thứ tiếng là còn giữ khả năng phân biệt 2 tiếng nói theo cử động của đôi môi. Đây là một ưu thế không phải là nhỏ để học những tiếng khác trong tương lai. (POUR LA SCIENCE 7/2007)
2/ KỀM HÃM TIẾN TRIỂN CỦA BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG.

Cản Interleukine-1-beta, một phân tử của hệ miễn dịch, làm giảm nhẹ bệnh đái đường.
Năm 1995, đã có 135 triệu người bị bệnh đái đường trên thế giới, năm 2000 con số lên đến 177 triệu và vào năm 2025 hẳn phải có hơn 300 triệu. Ở Pháp hiện tại đã có 2 triệu người. Nhóm nghiên cứu của nhà nội tiết học Marc Donath thuộc đại học Zurich từ mười năm nay tìm cách chống lại tai ương này: nhóm nghiên cứu vừa trắc nghiệm thành công một phương tiện để làm chậm lại tiến triển của bệnh..
Trong bệnh đái đường phổ biến nhất (đái đường loại 2), sự tiêu thụ quá độ thức ăn, đặc biệt là đường, làm những tế bào sản xuất insuline (các tế bào beta của các tiểu đảo Langerhans của tụy tạng) bị rút kiệt dần hoặc bị chết . Không có insuline, nồng độ đường trong máu sẽ tăng lên quá mức, điều này sẽ mang lại những hậu quả có hại lên các chức năng quan trọng. Các tế bào beta chết đi (điều này mới đây đã được xác nhận) ngay từ khởi đầu của căn bệnh, nhưng chúng cũng có khả năng tăng sinh. Chính vì vậy mà Donath khẳng định rằng nếu ta tìm cách phong tỏa đuợc sự hủy hoại các tế bào beta thì sự tăng sinh của chúng sẽ đủ để bình thường hoá nồng độ đường. Các nhà nội tiết học đã chứng tỏ rằng phân tử interleukine-1-beta đóng một vai trò chủ chốt trong sự chết của các tế bào beta. Phân tử này khởi động cái chết được chương trình hóa của tế bào (apoptose). Với sự hỗ trợ của các đồng nghiệp của Trung tâm Steno vì bệnh đái đường ở Đan mạch, cách nay 3 năm, họ đã phát động một nghiên cứu lâm sàng trên 70 bệnh nhân đái đường. Một nhóm bệnh nhân thứ nhất nhận chất phong bế interleukine-1-beta còn nhóm thứ hai thì nhận một placebo. Sau một tuần người ta nhận thấy có những cải thiện rõ rệt về chuyển hóa đường và nồng độ đường trong máu. Ngoài ra điều trị làm giảm nhẹ nhiều hiện tượng viêm có liên quan đến các biến chứng tim mạch của bệnh đái đường.
Thế mà bây giờ ta đã có các chất phong bế interleukine-1-beta với thời gian tác dụng tương đối dài. Có lẽ bệnh đái đường loại 2 sẽ được điều trị bằng một mũi tiêm mỗi tháng (hoặc mỗi 3 tháng). Nhiều công ty dược phẩm đang nghiên cứu hướng điều trị mới này của bệnh đái đường được gọi là béo (diabète gras). Bệnh này đặc biệt gây bệnh cho những người bị tăng thể trọng. (POUR LA SCIENCE 7/2007)
3/ MỘT THUỐC CHỦNG CHỐNG DỊCH TẢ DÙNG BẰNG ĐƯỜNG MIỆNG.

Một thuốc chủng uống được đã được thử nghiệm bởi các nhà nghiên cứu của Đại Học Tokyo ở Nhật bản. Họ đã biến đổi về mặt di truyền các dòng của giống lúa. Như thế họ sát nhập vào bộ gènes (génome) một chuỗi ADN mã hoá cho một protéine của độc tố dịch tả được tiết ra bởi các vi khuẩn Vibrio cholerae. Protéine này (CTB) tích tụ trong các « cơ quan tích trữ » (organes de stockage) của các hạt lúa được chuyển gène (transgénique) với nồng độ 30 microgramme mỗi hạt.
Trong dạ dày sự tiêu hoá của các « cơ quan tích trữ » này chỉ xảy ra một phần, điều này cho phép các protéines CTB không bị tiêu hoá, tương tác với các tế bào miễn dịch ở ruột non. Một khi sự sản xuất các kháng thể được hoạt hóa, chuột được miễn dịch chống lại bệnh.
Nếu điều này được áp dụng trên người thì vaccin mới, được gọi là MucoRice sẽ cho phép các nước bị dịch bệnh tích trữ « thuốc chủng » mà không cần phải gìn giữ bằng đông lạnh. Thành phẩm dưới dạng viên chứa bột gạo được nghiền, có thể được bảo quản ở nhiệt độ môi trường xung quanh trong một năm rưỡi.
Ngoài ra tiêm chủng được gọi là « niêm mạc » (vaccination muquese) có một ưu thế hơn tiêm chủng cổ điển bằng tiêm chích. Tiêm chủng kích thích sự sản xuất các kháng thể không những toàn thân mà còn ở niêm mạc. Sự hoạt hoá hai mức miễn dịch này tuồng như có hiệu quả hơn để chống lại các bệnh truyền nhiễm mới xuất hiện hoặc tái xuất hiện (maladies infectieuses émergentes et réémergentes). Những bệnh nhiễm khuẩn này phát triển trên các mô niêm mạc của cơ thể (Sida, cúm, bệnh thận). (LE FIGARO 27/6/2007)
4/ TUỔI GIÀ VÀ BẢN NĂNG GIỚI TÍNH

"Ở Tây Âu, những người nhiều tuổi nhất càng ngày càng nhiều và họ sống càng ngày càng lâu". BS Marie-Hélène Colson, chuyên gia giới tính học (sexologue) thuộc Đại Hoc Y Khoa Marseille và Montpellier đã phát biểu như vậy. Các ông các bà trên 60 tuổi vẫn còn hơn 1/3 cuộc đời trước mắt họ».
Thế thì những người già này họ vẫn có một đời sống tình dục hay không? Trở ngại chính cho một dục tính nảy nở chắc chắn là do sức mạnh của các thành kiến và các niềm tin sai lạc làm hạn chế tình dục nơi người lớn tuổi và có khuynh hướng cho là đúng ý tưởng rằng dục tính sẽ dừng lại với tuổi tác. Điều đáng buồn cười là giới hạn tuổi này lại thay đổi tùy theo lứa tuổi của người được hỏi. Năm 2004, Laumann và các cộng tác viên đã hỏi 26.000 người tuổi từ 40 đến 80 ở 29 nước khác nhau. Một trong những câu hỏi được đặt ra là: « Theo các ông, có một giới hạn tuổi mà từ thời điểm đó khả năng giao hợp của các ông sẽ bị giảm không ? » Đối với những người lứa tuổi từ 40 đến 49 thì tuổi giới hạn là 60 đến 64 tuổi. Đối với những người 50 đến 59 tuổi thì tuổi giới hạn là 70. Còn đối với những người 60 đến 69 tuổi thì giới hạn này trên 75 tuổi.
THỤ ĐỘNG.
Sự lão hoá đặt con người đối diện với sự mất mát và từ bỏ. Sự suy giảm các hormones sinh dục đóng một vai trò quan trọng trong quá trình lão hoá ở đàn ông cũng như ở đàn bà và sự biến chất của hình ảnh có thể thường được nêu ra như là một yếu tố kềm hãm tình dục nơi những người lớn tuổi bởi chính bản thân họ cũng như bởi những người chung quanh. Những sự suy thoái cũng xảy ra với chức năng nhận thức, cảm giác và sự biến đổi đáp ứng tình dục theo tuổi từ lâu đã được chứng minh bởi Masters và Johnson năm 1966. Sự lão hoá thường kèm theo sự mất tính cơ động. Tỷ lệ mắc phải bệnh tật gia tăng với tuổi và sự liên kết giữa một bệnh mãn tính với bệnh lý cương (pathologie érectile) ở các ông đã được đặc biệt làm sáng tỏ những năm vừa qua trong nhiều công trình nghiên cứu. Các nghiên cứu mới đây chứng thực tỷ lệ bị rối loạn dục tính cao hơn nhiều sau 60 tuổi. Sự lão hoá cũng gây biến đổi trên bình diện xã hội, thay đổi các điểm mốc xã hội và tình cảm sau khi về hưu, sự qua đời của những người thân, những đoạn tuyệt tình cảm. Không ngạc nhiên khi tỷ lệ trầm uất và tự tử cũng cao ở những người trên 60 tuổi. Sau 80 tuổi, sự cô lập cách ly nhường chỗ cho sự chung đụng và thiếu ấm cúng của các nhà dưỡng lão. Do đó sự lão hóa mang trong nó nhiều kềm hãm cho một dục tính nảy nở.
CHỦ ĐỘNG.
Nhưng các nghiên cứu chứng tỏ rằng những người trên 60 tuổi cũng có một tiện nghi cao hơn tiện nghi của những người 30-49 tuổi. Họ không do dự lúc phải ly dị hay làm lại cuộc sống lứa đôi.Và nếu như tình dục nơi những người già cả là những điều ta thường khó có thể hình dung đến thì trên thực tế dục tính này lại tuồng như là một phần của cuộc sống hàng ngày của những người trên 60 tuổi và ngay cả trên 80 tuổi, như nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố chứng tỏ. Ngay trong vài trường hợp, dục tính tuồng như được cải thiện đặc biệt là ở các bà nhưng cũng ở các ông về mặt phóng tinh sớm. Vậy thì tuồng như rằng mặc dầu những kiêng kỵ, cấm đoán và những thành kiến, tình dục đúng là không biến mất theo tuổi tác. Trên thực tế đối với những người già càng ngày càng nổi rõ một cách sống mới: vừa sống lâu vừa già trẻ lại (vivre vieux en vieillissant jeune). Ngày nay những biến đổi về các mốc tình dục đưa đến một cải biến sâu rộng các thái độ tình dục nam và nữ và cuộc sống lứa đôi là một tiêu chuẩn duy trì tình dục tốt hơn là tiêu chuẩn tuổi tác(LE GENERALISTE 28/6/2007)
5/ VAI TRÒ CỦA TESTOSTERONE TRONG ĐÁI ĐƯỜNG LOẠI 2

Nhiều nghiên cứu đã chứng tỏ rằng người ta thường tìm thấy những nồng độ testostérone thấp trong máu nơi những người đàn ông mắc phải bệnh đái đường loại 2 và ngược lại. Những nồng độ thấp của testostérone này có tiên đoán rằng một bệnh đái đường loại 2 hay một hợp chứng chuyển hóa (syndrome métabolique) sẽ phát sinh về sau này không ?
Mới đây một nhóm nghiên cứu của Đại học Sheffield (Vương Quốc Anh) được chỉ đạo bởi BS R.Stanworth đã xác nhận mức độ rất phổ biến của một nồng độ thấp testostérone trong một nhóm 355 đàn ông bi bệnh đái đường loại 2 và đă chứng tỏ rằng đa số những người này có những triệu chứng của chứng giảm năng bộ sinh dục (hypogonadisme). Nồng độ SHBG ( Sex Hormone-Binding Globulin) giảm trong bệnh đái đường loại 2, điều này khiến vài nhà nghiên cứu gợi ý rằng đó là nguyên nhân của nồng độ testostérone thấp trong máu (LE GENERALISTE 28/6/2007)
6/ SỰ LÃO HÓA NÃO: LỢI ÍCH CỦA CAROTENOIDES?

Trên cơ sở công trình nghiên cứu dịch tễ học được thực hiện quy mô lớn E.V.A (évaluation du vieillissement cérébral: đánh giá sự lão hóa não bộ) đã theo dõi trong 9 năm 1389 người tình nguyện từ 60 đến 70 tuổi, các nhà nghiên cứu của Inserm đã chứng tỏ rằng quá trình lão hóa của não bộ rất tương quan với những nồng độ thấp của caroténoides trong máu. Đặc biệt là 2 trong số các caroténoides: lycopène ( hiện diện chủ yếu trong quả bưởi, dưa hấu và cà chua) và zéaxanthine ( rau và trái xanh ). (LA LIBRE MATCH 14/6-20/6/2007)
7/ SỰ CÔ ĐƠN: YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA CHỨNG SA SÚT TRÍ TUỆ

Một công trình nghiên cứu được tiến hành trên 823 người trên 80 tuổi và được theo dõi trong 4 năm đã xác nhận rằng sự cô đơn (solitude) là một yếu tố nguy cơ của chứng sa sút trí tuệ xuất hiện muộn (démence tardive) nhưng không phải là yếu tố nguy cơ của bệnh Alzheimer. Sự duy trì một mức độ tối thiểu những mồi tương tác xã hội và tình cảm là điều chủ yếu để bảo tồn các chức năng nhận thức (fonctions cognitives). Trái lại, sự cô lập về mặt xã hội (isolement social) sẽ làm dễ sự xuất hiện những hợp chứng «giống bệnh Alzheimer » (Alzheimer Like), khác với một bệnh Alzheimer thật sự. 90 giải phẫu tử thi được thực hiện trên những người chết trong lúc thực hiện công trình nghiên cứu đã không chứng tỏ mối tương quan nào giữa sự cô đơn và những thương tổn thần kinh đặc hiệu của bệnh Alzheimer cũng như không có mối quan hệ giữa sự cô đơn với việc xảy ra các tai biến mạch máu não. (LA LIBRE MATCH 14/6-20/6/2007)
8/ CÁC TẾ BÀO CƠ THẾ GIÀ VÀ CHẾT NHƯ THẾ NÀO?

Các tế bào cơ thể của chúng ta chịu thường trực một hiện tượng oxy hóa (oxidation). Quá trình oxy hóa này như thể làm « gỉ » (rouiller) các tế bào bằng cách làm hỏng các cấu trúc của chúng: các ADN của tế bào và nhất là các “nhà máy điện mini “ (mini-centrale), một loại nồi hơi (chaudrière) nhỏ chế tạo năng lượng được gọi là thể hạt (mitochondrie). Ngày nay các nhà nghiên cứu nghĩ rằng một trong yếu tố quan trọng nhất của sự lão hóa đúng là do sự biến chất của các thể hạt này cũng như sự vận hành của chúng. Mặt khác, các tế bào được chương trình hóa về mặt di truyền để phân chia và chết. Ta có thể ví tế bào như một ngọn nến (bougie) trong đó bấc nến (mèche) bị thiêu hủy dần dần và tế bào ngừng hoạt động khi không còn bấc nến nữa. Nếu như các tế bào ung thư không chết đó là bởi vì các tế bào này sản xuất một enzyme (télomérase) làm bấc nến dài thêm mỗi lần phân chia tế bào. Sự lão hóa những tế bào của chúng ta cũng do những sai lầm xảy ra trong một vài phân chia tế bào (sai lầm trong chương trình di truyền) và dẫn đến những hỏng hụt trong chế tạo các protéine và các enzyme thiết yếu cho sự sống.. (LA LIBRE MATCH 20/6- 4/7/2007)
9/ THUỐC CHỐNG TRẦM UẤT IRS và VENLAFAXINE VÀ CHỨNG NGHIẾN RĂNG

Các dữ kiện của Hoà Lan và Anh cho thấy hàng chục trường hợp nghiến răng (bruxisme) có liên quan với việc sử dụng nhiều loại thuốc chống trầm cảm IRS (inhibiteurs sélectifs de la recapture de la sérotonine) và venlafaxine. Rối loạn biến mất khi ngừng thuốc nhưng mức độ đôi khi quan trọng đến độ để lại những di chứng trên răng.
Chứng nghiến răng (bruxisme) là một cử động cọ xát không tự ý giữa các răng trong lúc ngủ.
Tháng giêng năm 2007, Trung tâm cảnh giác dược Hoà lan Lareb đã báo cáo 10 bảng thông báo về các trường hợp nghiến rằng xảy ra nơi những người tuổi từ 31 đến 63 tuổi đã sử dụng thuốc chống trầm cảm IRS (7 trường hợp) hoặc venlafaxine (3 trường hợp).
Cơ chế giải thích hiện tượng này giống với cơ chế gây nên những tác dụng extrapyramidal của IRS (mặc dầu venlafaxine không phải là một IRS). (PRESCRIRE 6/2007)
10/ UNG THƯ TỤY TẠNG: HY VỌNG CỦA HAI HƯỚNG NGHIÊN CỨU

Trong hội nghị vừa qua của Hiệp Hội Hoa Kỳ Nghiên Cứu Ung Thư, hai nhóm nghiên cứu của Đaị Học Pittsburg đã mang lại niềm hy vọng về một hiệu quả lớn nhất chống lại ung thư tụy tạng. Loại ung thư này hàng năm ở Pháp gây bệnh cho 500 người và ở Hoa Kỳ 32.000 người. Đó là ung thư tiêu hóa có tiên lượng ít thuận lợi nhất. Nhóm nghiên cứu của BS Andrew Lepisto đã trắc nghiệm một thuốc chủng ngừa được gọi là « dendritique » trên 12 người bị mổ vì ung thư tụy tạng. Thuốc chủng này được tiêm 3 mũi cách nhau 3 tuần rồi một mũi nhắc lại 6 tháng sau. Sau năm năm, 5 trong số những người được tiêm chủng vẫn còn sống sót (tỷ lệ 42% cao hơn chuẩn hiện nay).
Thuốc chủng này cho phép kích thích hệ miễn dịch chống lại một loại tế bào ác tính nào đó. Không có gì đảm bảo rằng phương pháp này có tác dụng lên những tế bào ung thư tụy tạng nhưng thử nghiệm đã có kết quả dương tính.
Một nghiên cứu khác được chỉ đạo bởi BS Sanjay Srivastava đã trắc nghiệm triphala, một hỗn hợp 3 loại trái cây khô từ Ấn Độ, một loại thuốc cổ truyền được sử dụng để làm dễ sự tiêu hóa. Những công trình này đã gợi ý rằng triphala làm dễ sự chết sinh học của những tế bào ung thư mà không làm hại những tế bào lành mạnh. Giả thuyết này được đánh giá trên chuột mang khối u tụy tạng người. Các con chuột này được cho uống triphala 5 ngày mỗi tuần trong vòng 1 tháng. Kết quả: Các khối u được điều trị giảm 50% so với những con chuột được điều trị bằng placebo nhưng khộng ảnh hưởng đến các tế bào bình thường.
Hai hướng nghiên cứu này có thể bổ sung cho nhau (LA LIBRE MATCH 31/5-5/6/2007)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(2/7/2007)

Chữ ký của Admin

«Ðề Tài Trước|Ðề Tài Kế»


Tin Mới Y Học Collap11Trả lời nhanh
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Có Bài Mới Có bài mới đăngChưa Có Bài Mới Chưa có bài mớiChuyên Mục Ðang Bị Khóa Ðã bị đóng lại
Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất